Thứ Năm, 29 tháng 1, 2015

Con Đường Dân Chủ Thực Tiễn Cho Việt Nam (2)

Thế giới qua hơn nửa thế kỷ nay đã chứng tỏ rằng bất bạo động là phương pháp đấu tranh duy nhất thực sự hữu hiệu trong việc xây dựng nền tảng dân chủ. Có nhiều lý do để tránh mọi hình thức bạo động. Thực tiển đơn giản nhất là khi chính quyền độc tài nắm hết mọi công cụ của bạo lực thì chiến thắng bằng bạo động là chuyện không tưởng. Hy vọng có được hổ trợ vũ lực từ bên ngoài trong hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam cũng hoang đường không kém. Chắc chắn không mấy ai nhân danh dân chủ mà lại cổ súy bạo động chống chính quyền. Nhưng đấu tranh bất bạo động hữu hiệu cần phải theo một số nguyên tắc mà hầu như ít ai chú ý.

Tranh chấp dưới bất cứ hình thức nào cũng nhằm tạo ra áp lực buộc đối phương phải nhượng bộ. Tranh đấu bạo động thì áp lực chính là quân sự. Trong những cuộc đình công bất bạo động ở xứ tự do thì áp lực chính là kinh tế. Tạo ra áp lực cho đối phương cũng như chống lại áp lực của đối phương đều đòi hỏi phải trả giá. Bên thua cuộc là bên không đủ sức trả cái giá cuộc đấu tranh đòi hỏi. Người đấu tranh dân chủ phải tự hỏi họ sẽ tạo ra được áp lực gì đối với chính quyền độc tài và sẽ phải trả giá như thế nào. Hô hào xuống đường khi không có câu trả lời thấu đáo thì chỉ là một hành động bồng bột khó đem lại kết quả như ý muốn.

Phong trào Occupy Wall Street dù đã lan rộng khắp các thành phố lớn ở Mỹ với sự tham dự và ủng hộ đông đảo của thanh niên vẫn không đi đến đâu vì không tạo ra áp lực gì (và cũng không có những đòi hỏi thực tiển). Ngược lại những cuộc biểu tình của Đảng Trà (Tea Party) đã có ảnh hưởng mạnh trên chính trường Mỹ vì áp lực của lá phiếu. Trong một nước toàn trị thì áp lực của lá phiếu, hay ý dân, là một điều vô nghĩa. Vì thế mà hành động xuống đường biểu tình tự nó không phải là một hình thức tranh đấu dân chủ hữu hiệu trong mọi thời điểm. Điển hình là sự bất lực của thanh niên Hồng Kông trước những áp đặt của Bắc Kinh. Dù họ có ý thức chính trị cao và đã chuẩn bị công phu nhưng vẫn không thể tạo ra áp lực đủ mạnh để buộc Bắc Kinh phải nhượng bộ.

Bất phục tùng dân sự (civil disobedience) có thể như cây gậy thọc vào cái bánh xe của chính quyền độc tài. Gậy đủ lớn thì có áp lực đủ mạnh để làm hỏng bánh xe. Nhưng trong thực tế thì rất khó có thể hô hào người dân tạo ra một phong trào bất phục tùng dân sự chống lại chính quyền độc tài. Cái giá của hành động bất phục tùng là tù đày hay ngay cả sinh mạng. Một cái giá quá cao mà bất cứ ở đâu, thời nào cũng chỉ có một thiểu số nhỏ dám chấp nhận.

Xuống đường biểu tình, đình công, bất phục tùng dân sự để tạo ra áp lực của cử tri, áp lực kinh tế, áp lực xã hội, là những hình thức tranh đấu bất bạo động hữu hiệu với một chính quyền có lương tâm. Nhưng dưới chế độ độc tài thì những hình thức tranh đấu này sẽ không tạo ra áp lực gì và do đó sẽ thất bại như ở Hồng Kông (không đạt được mục đích là có qưyền bầu cử thật sự) nếu những người tranh đấu dân chủ chỉ dựa vào chúng.

Chà đạp nhân quyền của người đấu tranh bất bạo động, chính quyền độc tài cũng phải chịu sự phê phán của dư luận quốc tế, sự tẩy chay của những nước văn minh. Nhưng lịch sử thế giới đã chứng tỏ rằng đây là một cái giá mà mọi chế độ toàn trị sẳn sàng chấp nhận khi họ thấy cần. Cuộc thảm sát ở Thiên An Môn năm 1989 là một ví dụ đẫm máu hùng hồn. Vì vậy mà đấu tranh như thế thì phần chủ động sẽ luôn luôn nằm trong tay chính quyền, khó mà thành công được.

Áp lực duy nhất sự đấu tranh bất bạo động có thể tạo ra được trong một chế độ độc tài là một áp lực mà thoáng nghe thì có vẻ mơ hồ nhưng lại là môt áp lực hữu hiệu nhất, mạnh nhất. Đó chính là áp lực của lương tâm. Lương tâm của ai? Lương tâm của người dân, lương tâm của xã hội, lương tâm của những viên chức, bộ đôi, công an trong bộ máy chính quyền. Rất có thể là lương tâm của chính những người đang cầm quyền sinh sát của chế độ. Vai trò của "lương tâm" trong cuộc đấu tranh dân chủ là một vấn đề rất tế nhị. Người đấu tranh dân chủ không thể ngây thơ, chủ quan, mà phải chấp nhận và suy tính rằng chính quyền độc tài vốn không có lương tâm, sẽ không từ một thủ đoạn nào để ngăn chận quyền dân chủ. Nhưng đồng thời họ cũng phải thấy rõ rằng lương tâm của mỗi người, ngay cả những cá nhân trong guồng máy độc tài, cũng không bao giờ biến mất. Lương tâm con người, ngay cả những lương tâm bị che mờ vì lòng tham và thù hận, chính là đối tượng đế chiến thắng của những người đấu tranh dân chủ.

Một khi con người và xã hội cho rằng những chính sách, những biện pháp hiện hành của chính quyền là "vô lương tâm" thì cái chính quyền đó hoặc sẽ phải nhanh chóng thay đổi hoặc sẽ sụp đổ mà không cần cái giá của nhiều hy sinh xương máu. Khi người lính của chính quyền ngần ngừ tay súng, khi thượng cấp của anh ta trì hoãn lệnh bắn, khi những người có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của chính quyền không muốn tiếp tục công việc.. thì chỉ cần một diễn biến nhỏ cũng có thể nhanh chóng đưa đến một sự thay đổi chính trị sâu rộng. Rất có thể những tay lãnh đạo trong chính quyền độc tài cũng sẽ nhận ra sự tỉnh thức của lương tâm xã hội để tiến hành cải cách thật sự hòng tránh tai họa cho chính họ. Nhưng nếu không có một sự rung chuyển trong lương tâm của những thành viên trong xã hội, thì đấu tranh dân chủ sẽ khó mà thành công. Nếu không có áp lực đủ mạnh của lương tâm thì cái giá độc tài phải trả khi ra tay chém giết là rất thấp so với cái giá xương máu của người đấu tranh dân chủ.

Trong cuộc đấu tranh dân chủ này, không có thành trì để chiếm đóng, không thể đánh bại binh đoàn của độc tài, chỉ có thể xoay chuyển được lương tâm của xã hội. Vì thế mà đây không phải là cuộc tranh đấu chống quân thù. Nhưng về phía chính quyền thì càng tạo ra được ấn tượng của một cuộc chống phá bởi những "thế lực thù địch" thì càng dễ khiến xã hội thờ ơ với phong trào đấu tranh dân chủ. Có thể vì không nhận ra bản chất và mục tiêu thực tế của cuộc đấu tranh, nhiều người vẫn dùng những ngôn từ và hình thức sáo mòn để đả kích chính quyền, trong đó có nhiều phần tử họ cần phải thuyết phục và có thể thuyết phục được, như một kẻ thù để tiêu diệt. Dù vô tình, chính họ đang tiếp tay cản trở tiến trình dân chủ của đất nước với cái tư duy, ngôn ngữ, và hành động đã trở thành thói quen từ những cuộc đấu tranh bằng vũ lực của thời xưa.

Để thành công, cuộc đấu tranh dân chủ cho Việt Nam hôm nay phải có bản chất của một cuộc đấu tranh về tư tưởng, đấu tranh để thuyết phục từng cá nhân trong xã hội rằng cuộc đời của họ, tương lai con cháu họ, tương lai đất nước sẽ tốt đẹp hơn với những đòi hỏi cụ thể của những người đang dấn thân tranh đấu. Tùy hoàn cảnh, quá khứ, và tâm hồn, có người đã chọn con đường đấu tranh dân chủ, có người sẽ cảm nhận và ủng hộ, dù âm thầm, và cũng sẽ có người, trong số những người đang được hưởng độc quyền và đặc lợi, quyết chống mọi tiến triển dân chủ. Cho đến khi mà đa số người dân hiểu và đồng tình ủng hộ những đòi hỏi cụ thể của phong trào dân chủ thì trọng tâm của cuộc tranh đấu vẫn phải là sự thuyết phục quần chúng chứ không phải tổ chức những hoạt động kêu gọi chống chính quyền. (Chính quyền sẽ có những vi phạm đòi hỏi một sự phản đối mạnh như một cuộc biểu tình chẳng hạn. Nhưng người xuống đường cần phải cân nhắc tùy theo vụ việc để thuyết phục thêm được quần chúng thay vì để lọt vào cái bẩy "gây rối loạn, phá hoại đời sống" của chính quyền.)

Ngày mà bà con, bạn bè của những người dấn thân cho dân chủ không hỏi tại sao làm thế, ngày mà họ ủng hộ cuộc đấu tranh, dù chỉ là ngấm ngầm trong tư tưởng, ngày mà  đa số những người chọn đứng bên lề chỉ vì họ sợ, chỉ vì họ không thể hay không dám trả cái giá chống độc tài chứ không phải vì bất đồng tình thì đó là ngày mà thành trì và súng đạn của chính quyền độc tài sẽ trở thành vô hiệu dù bên ngoài vẫn rất hoành tráng. Đây là lý do tại sao những cuộc đấu tranh dân chủ bất bạo động thành công đều có vẻ như đã bùng phát đột ngột và nhanh chóng đạt được kết quả. Thật ra đó chỉ giai đoạn kết thúc của một quá trình xoay chuyển lương tâm của xã hội đã thành công. Vấn đề là làm thế nào để thành công.

Trước hết ta hãy điểm qua những việc làm không có hiệu quả, nếu không nói là phản tác dụng trong việc thuyết phục đa số quần chúng để có được một đất nước dân chủ. Một trở ngại lớn là sự chia rẽ vì lịch sử, hay đúng hơn là vì sự đấu tố lịch sử theo cảm tính, của những người đang cùng kêu gọi dân chủ. Lịch sử Việt Nam dĩ nhiên là phức tạp, bị bóp méo, viết lại nhiều hơn lịch sử của những nước tự do. Tìm hiểu sự thật lịch sử, ngay cả ở xứ tự do, vẫn là một việc làm đòi hỏi tinh thần khách quan và trình độ nghiêm túc của các sử gia chuyên nghiệp. Khi những người không thể phân biệt đâu là sử kiện, đâu là tin đồn, không thể đánh giá được sự khả tín và biện minh của nhân chứng... mà lại hùng hục lên án hay tung hô theo cảm tính thì sẽ không thuyết phục được ai. Đây là một hành động có thể đem lại hứng thú cho những người vốn có cùng niềm tin nhưng vô dụng cho tiến trình dân chủ. Dù lịch sử có như thế nào thì con đường cần đi trước mắt vẫn không thay đổi; và nếu những tệ nạn hiện thời không đủ để rung chuyển lòng người thì sự thật lịch sử cũng chỉ là chuyện cổ tích.

Sự xung khắc không đúng lúc giữa những người cùng đấu tranh dân chủ cũng là một hành động phản tác dụng khác. Dân chủ - quyền được lựa chọn của mọi người, mỗi người dân một lá phiếu - không đòi hỏi người ta phải có ý kiến cụ thể như thế nào, mà chỉ đòi hỏi sự chấp nhận quyền chọn lựa của người khác. Đây chính là mẫu số chung cho tất cả mọi hoạt động đấu tranh dân chủ. Sự bất đồng ý kiến trong những vấn đề liên quan đến cuộc sống hằng ngày là một điều không thể tránh khỏi, và cũng chính là một yếu tố làm xã hội tiến bộ với thời gian. Những người đấu tranh dân chủ thường không có, không cần có (và cũng không nên có) cùng chính kiến ngoài lý tưởng dân chủ, đặt quyền chọn lựa của dân trên hết. Khi chưa có được quyền chọn lựa thì những tranh chấp khác chỉ làm phân tán nổ lực đấu tranh đòi quyền dân chủ. Những khác biệt này, dù quan trọng, vẫn là những vấn đề phải để hạ hồi phân giải, một khi đã có được thể chế dân chủ. Đây là điều hiển nhiên đến nhàm trên lý thuyết, nhưng thực tế thì bản chất con người vẫn có những đố kỵ, những tham vọng khiến ta khó mà bỏ qua những khác biệt về quan điểm để cùng sát cánh. Rất may là thực tế cũng không đòi hỏi mọi người mà chỉ cần một vài người có uy tín, đại diện tinh thần, của những nhóm tranh đấu dân chủ khác nhau có đủ tâm trí để nói lên và làm theo nguyên tắc thỏa hiệp dân chủ này.

Mắng chửi Cộng Sản một cách chung chung cũng phản tác dụng.  Gốc rễ chỉ là thể chế và bản chất con người. "Người Cộng Sản" đã là một khái niệm vô nghĩa. Trong hàng ngũ Đảng viên và lãnh đạo hôm nay có những kẻ đã bòn rút, trấn lột dân, những kẻ mà  người Cộng Sản 70 năm trước hẳn sẽ giết không tha. Và cũng trong hàng ngũ của những Đảng viên hôm nay, những kẻ được hưởng quyền lợi của chế độ toàn trị lại có những người đứng lên, chịu trả giá tù đày, để đòi cải cách, quyền dân chủ. Những người dùng một cái nhãn hiệu đã lỗi thời để chửi rủa chung chung chỉ biểu lộ tâm trí cạn cợt, chỉ có thể khích động hận thù, hoàn toàn vô ích trong cuộc đấu tranh bất bạo động. Chính những người họ đang miệt thị, những cá nhân trong guồng máy chính quyền, là người mà lương tâm sẽ quyết định tương lai dân chủ của Việt Nam.

Một đặc điểm của đấu tranh bất bạo động, đấu tranh tư tưởng là sức mạnh của phong trào tùy thuộc vào sự minh bạch, công khai của những người tranh đấu. Họ lên tiếng, họ chống đối đường hoàng dõng dạc cho nhân quyền, cho lợi ích của xã hội, cho công lý... Họ không hành sự lén lút, không tuyên truyền nặc danh. Trước những người như thế, đội ngũ an ninh chuyên điều tra, đối phó với những hoạt động chống đối bí mật sẽ trở thành vô dụng đến khôi hài, ngay cả đối với những người công an đang làm nhiệm vụ. Đây cũng là bước đầu để chuyển hoá tâm tư họ. Dù trong hoàn cảnh đối nghịch, ít người có thể nuôi lòng hận thù hay hằn học lâu dài khi đối phương rõ ràng là chống đối để cải thiện, để xây dựng, không chống đối để tiêu diệt hay đập phá.

Diễn biến Thiên An Môn 25 năm trước là một bài học đáng chú ý về khả năng thức tỉnh lương tâm của đấu tranh bất bạo động cũng như cái giá độc tài chịu trả để giữ vững chế độ. Trong bảy tuần biểu tình ôn hòa của sinh viên Bắc Kinh, người dân Bắc Kinh ngày càng ủng hộ họ. Những sinh viên này chẳng nguyền rủa Mao Trạch Đông, chửi Đảng, mà chỉ đòi tự do ngôn luận, thêm quyền dân chủ, dẹp tham nhũng... Ai có lương tâm cũng phải đồng tình, bất kể chính kiến. Đặng Tiểu Bình và đồng bọn không dám tin vào sự trung thành của những binh đoàn đang trấn thủ Bắc Kinh, những người lính đã thấy, đã nghe những sinh viên này trong mấy tuần qua. Lãnh đạo Bắc Kinh đã hoán chuyển những binh đoàn ở xa về để trấn áp. Những người lính này thật lòng nghĩ rắng nhờ có Đảng và lãnh tụ mà đời sống họ khá hơn, nước Trung Hoa được ngẩn mặt với thế giới. Đối với họ những thanh niên đang tranh đấu chỉ là quân “phản động”. Vì thế họ đã không ngần ngại giày xéo khi có lệnh. Hoàn cảnh Việt Nam và thế giới hiện nay thuận tiện hơn nhiều cho cuộc đấu tranh tư tưởng để xoay chuyển lương tâm một cách rộng lớn.

Chính quyền Việt Nam ngày nay có lẽ cũng không thua kém gì Đặng Tiểu Bình và đồng bọn về thủ đoạn chống dân chủ. Những người đấu tranh có nhiều ảnh hưởng chắc chắn phải trả giá. Họ đã và sẽ phải chịu cảnh tù đày. Nhưng tiếng nói của họ dần dà sẽ có được sự ủng hộ, dù là thầm lặng lúc đầu, của đa số quần chúng. Một chính quyền có lương tâm không thể có tù nhân lương tâm. Và những tù nhân lương tâm chính là tiếng chuông mạnh nhất để thức tỉnh lương tâm xã hội, lương tâm thế giới. Tiếng chuông của Nelson Mandela, Aung San Suu Kyi đã đem lại những thay đổi lớn cho nền dân chủ của nước họ (dù hiện vẫn có nhiều trở ngại). Những người chịu trả cái giá tù đày để nói lên điều cần nói, những người tù lương tâm, bao giờ cũng là nổi lo lớn nhất của độc tài. Chính quyền Việt Nam đã nghĩ ra được một giải pháp để tạm thời đối phó. Họ sẽ "xuất khẩu" những ai đã tạo ra ảnh hưởng lớn với lòng can trường dám chấp nhận ngục tù. Tiếng nói của người sống trong một xã hội phồn thịnh, tự do sẽ không có cái hùng tráng đầy sức thuyết phục của tiếng nói bị chận bóp vọng ra từ trong tù.  Nhưng thủ đoạn này sẽ không thể làm ngưng tiếng chuông đánh thức lương tâm vì Việt Nam xưa nay vẫn có những người can trường chịu ngồi tù cho lý tưởng.

Mức độ lên tiếng kêu gọi cải cách dân chủ tùy vào tâm tư và hoàn cảnh của mỗi người, tùy vào cái giá họ sẳn sàng chịu trả để có tiếng nói công khai. Nhưng dù ít hay nhiều, những tiếng nói ấy, nếu tránh được những tranh cải luẩn quẩn đưa ra ở trên, sẽ có tác dụng thay đổi cách nhìn và xoay chuyển lương tâm của xã hội. Trong cuộc tranh đấu này, "chiến trận" không chỉ là lúc đối đầu với công an, an ninh mà chính là trong những lúc đối thoại, tâm tình với bà con, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm... Dù muốn hay không, tác phong, nhân cách, tâm hồn, tính tình của những người đấu tranh dân chủ đều là những yếu tố thuyết phục (hay gây phản cảm) cho phong trào dân chủ. Để có thể "chiến thắng", người đấu tranh dân chủ phải tránh gây ra cảm giác, dù đúng hay sai, là họ chống đối chính quyền vì hận thù hay vì tham vọng cá nhân hơn là vì quyền lợi chung của xã hội.

Người chọn dấn thân trên con đường đấu tranh dân chủ lúc nào cũng phải có một mục tiêu, một đòi hỏi cụ thể cho quyền lợi trước mắt của người dân. Dân chủ - quyền chọn lựa của mọi người - tuy là mục đích tối hậu nhưng cũng là một khái niệm trừu tượng đối với đa số dân. Khi một số đông cảm thấy là đời sống kinh tế đã có nhiều tiến bộ so với mười, hai mươi, ba mươi năm trước thì những lý luận trừu tượng khó làm rung động lòng họ. Những người phê phán chống đối mà không đưa ra được một giải pháp thực tiển, nhất là với ngôn từ và thái độ hằn học, sẽ dễ dàng bị dân coi thường. Tuy chế độ toàn trị là gốc rễ của hầu hết những tệ nạn trong xã hội, thực tế đấu tranh dân chủ hằng ngày cần phải tập trung vào những đòi hỏi thực tiển mà mọi người đều thấy rõ sự lợi ích của chúng. Qua quá trình đấu tranh đòi hỏi những điều này, và phản ứng của chính quyền, người dân sẽ cảm nhận cái giá trị và sự cần thiết của thể chế dân chủ cũng như bản chất tệ hại của mọi chính quyền toàn trị. Để minh họa, ta hãy tưởng tượng một phong trào có thể xảy ra trong thực tế như thế.

Mọi người, dân cũng như quan, đều lên tiếng chống tham nhũng. Hãy phát động một phong trào bài trừ tham nhũng, làm công khai những thu nhập của các quan lớn. Đây hẳn là một đòi hỏi rất hợp lý  và có ích lợi thực tiển. Thu nhập minh bạch của quan chức sẽ tạo thêm lòng tin cho dân, làm quan thêm rạng rỡ - vàng thật không sợ lửa - và bớt gánh nặng cho dân, cho công quỹ vì tệ nạn đục khoét, hối lộ. Không ai có thể chống đối đòi hỏi này trên nguyên tắc. Trong thực tế thì đây là điều mà chính quyền độc tài, lũng đoạn bởi tham quan, sẽ kiên quyết chống. Và đây cũng chính là dip để người dân cảm nhận vai trò của thể chế và ủng hộ, dù thầm lặng, những hoạt động dân chủ không bị ràng buộc bởi quá khứ, hay màu cờ, sắc áo. Đây chỉ là một ví dụ. Có nhiều điều cụ thể như thế, trực tiếp liên quan đến đời sống hằng ngày, trước mắt của người dân, những đòi hỏi không liên quan đến ý thức hệ hay quá khứ chính trị, có thể tạo được sự ủng hộ rộng lớn để đem đến những cải cách dân chủ thật sự.

Bạo hành của công an, hối lộ của chính quyền địa phương, những tổ chức làm ăn gây thiệt hại cho xã hội, luật lệ bất công, v.v... đều có thể là đề tài cho những phóng sự cụ thể, những nhận định chính trị, những đòi hỏi mà đa số dân và ngay cả những Đảng viên có lòng yêu nước đều ủng hộ như ta đã thấy. Nhưng thay vì chỉ đưa ra những lời chỉ trích chung chung hay những kiến nghị, cần phải có những phóng sự chất lượng với những chi tiết và nhân vật cụ thể để vạch trần bản chất vô liêm sĩ, một sự vô liêm sĩ phi chính trị, của những người dùng quyền thế để bòn rút và che đậy tội lỗi. Trước luật pháp, dù là luật pháp khập khiển hiện hành tại Việt Nam, thì đây vẫn là những điều phạm pháp và những tên tội phạm đòi hỏi phải có sự xử lý và trừng phạt thích đáng. Nhưng khi kẻ cướp lại vừa là quan tòa vừa là cảnh sát, hệ quả tất yếu của chính quyền toàn trị, thì cách trả lời thường thấy sẽ là sự trấn áp những phóng viên, những nhà báo nói lên sự thật và những người đòi công lý cụ thể cho xã hội. Người dân sẽ nhìn những tay gian tham này và bộ máy chính quyền phục vụ chúng với cặp mắt đầy khinh bỉ. Không có một biện minh chính trị nào, quá khứ lịch sử nào có thể che lấp được cái bản chất xấu xa của những kẻ đã bị thoái hoá vì quyền lực và dục vọng thấp hèn.

Trong xã hội hiện nay, chính quyền đã không còn có thể hoàn toàn khống chế đời sống kinh tế của mọi người được nữa. Sẽ có những phóng viên, nhà báo độc lập điều tra và phơi bày sự tham nhũng, những đổi chác hại nước, hại dân, những sự bạo hành, phạm pháp của nhiều đại quan. Chính quyền chỉ có thể đối phó bằng cách chà đạp nhân quyền của họ. Bố ráp, kết tội, tống giam những người có dũng khí tìm hiểu và nói lên sự thật, phơi bày cái ai cũng cho là xấu để cải thiện xã hội, thì không chỉ là một vi phạm nhân quyền trắng trợn mà bản chất còn là một sự vô liêm sĩ, bất luận chính kiến và thời đại, đáng khinh của bạo quyền. Những người anh dũng dám đứng mũi chịu sào này chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của nhiều người, của cả thế giới, của ngay chính những người thấp cổ bé họng trong guồng máy toàn trị. Khi cai ngục đã có lòng kính trọng tù nhân thì thay đổi, cải cách thật sự chỉ còn là chuyện một sớm một chiều mà thôi. Bước đầu tiên có lẽ là chính quyền sẽ phải chấp nhận và tôn trọng quyền tự do ngôn luận, nền tảng của mọi hoạt động dân chủ. Chỉ cần một bước đầu như thế là rất có thể sẽ làm cả hệ thống toàn trị phải nghiên ngã.

Tập đoàn lãnh đạo Việt Nam hẳn cũng không phải toàn là những người u mê. Khi họ thấy lương tâm xã hội đã thay đổi, nền tảng toàn trị đã rạn nứt, rất có thể chính họ sẽ nhanh chóng tiến hành những cải cách cần thiết mà người dân đòi hỏi. Cuộc đấu tranh dân chủ như thế có nhiều triển vọng đem đến những thay đổi sâu xa và tốt đẹp về chính trị, thể chế, như từng xảy ra ở Đài Loan và Nam Hàn.

Đấu tranh như thế dĩ nhiên đòi hỏi phải có những người dấn thân, chịu trả cái giá cá nhân rất cao, nhưng lại không đòi hỏi quần chúng phải trả giá, không làm đời sống xã hội khó khăn hơn, dù tạm thời. Đấu tranh như thế tuy vẫn rất cam go nhưng có sức thuyết phục, dễ đánh thức lương tâm hơn tất cả những gào thét, nguyền rủa, hay kêu gọi người dân đứng lên lật đổ Đảng và chính quyền Cộng Sản như ta vẫn thường nghe thấy trong 40 năm qua. Đây chính là con đường đấu tranh dân chủ thực tiễn nhất. Thực tế hiện nay cũng có những lợi điểm cơ bản khiến ta có thể hy vọng vào một tiến trình dân chủ khả quan ở Việt Nam.

Người Việt không có những xâu xé lâu đời vì chủng tộc hay tôn giáo. Cùng một tiếng nói chung, giao thông, liên lạc đã không còn nhiều trở ngại về địa lý hay hành chánh, người Việt dễ có cùng chung những giá trị về chân, thiện, mỹ khi không còn bị ràng buộc bởi ý thức hệ và lòng hận thù. Từ trong lòng của chế độ, từ lớp người hoàn toàn trưởng thành trong sự giáo dục một chiều, cứng nhắc của chế độ vẫn xuất hiện những người với tài năng, khí phách và tâm hồn khiến hầu hết mọi người phải khâm phục. Bên cạnh họ hẳn phải còn rất nhiều người cũng băn khoăn, mong muốn có được một đất nước thịnh vượng. Ngay cả những người trong tập đoàn độc tài đang bị thao túng vì quyền lợi và tham vọng cá nhân cũng không thể phủ nhận sự thật hiển nhiên đến nhàm về vai trò cơ bản của pháp quyền và dân chủ. Tuy tệ nạn công lý rừng rú và nghị gật vẫn còn nhiều, Việt Nam cũng đã có những cơ sở, dù hiện thời chỉ là hình thức như phấn son tô điểm cho chế độ độc tài, để xây dựng một xã hội dân chủ. Ta đã thấy những người đấu tranh dân chủ hiên ngang tranh luận với công an, bất phục tùng trên căn bản pháp lý, và đưa đại quan ra tòa. Nếu ta có thể rũ bỏ được ý thức hệ, nhãn hiệu, và hận thù - những tàn dư, dù là tàn dư sâu đậm của quá khứ - để tập trung vào những thay đổi, đòi hỏi, chống đối để cải thiện xã hội, chính quyền, và đời sống chung thay vì đập phá thì chắc chắn sẽ có được những thành quả lớn trong tương lai gần.
************************************
Đường lối và triển vọng đấu tranh như thế này chắc chắn sẽ làm những người đang kêu gào cách mạng, đang nuôi mộng một ngày phất cờ lên ngôi thất vọng và nguyền rủa. Hy vọng họ chỉ là một thiểu số rất ít. Thực tế dân chủ không như họ nghĩ. Nhiều vấn đề cần phải đếm phiếu xong mới biết được. Những kẻ đặt điều kiện về đảng phái, chủ thuyết, dân trí, cờ quạt ... trước quyền chọn lựa của người dân chỉ là dân chủ giả hiệu, là độc tài vô quyền, bản chất vốn không khác độc tài đương quyền.Nhà cháu mặt xanh như đít nhái, xin vái chào chư vị cao nhân và xin chuồn đi đây

Con Đường Dân Chủ Thực Tiễn Cho Việt Nam (1)

LTS: Vì cái tít thuộc loại "Đại ngôn thì có tên này tiên sư" nên nhà cháu phải có đôi lời xin khúm núm trình làng. Nhà cháu hay nguệch ngoạc linh tinh chuyện chính trị trên Facebook. Có bậc trưởng bối phê bình rằng nhà cháu rất ngã mạn, chính trị mà cứ nói đến mình. Nhà cháu có thưa với cụ là những điều nhà cháu hiểu về chính trị thì hiển nhiên đến nhàm như tình yêu đôi lứa. Phải là người tự tin hơn nhà cháu nhiều lắm mới dám viết về cơ sở lý thuyết của tình yêu, yêu đương biện chứng pháp, hay những điều cao siêu trí thức tương tự. Bọn nhà cháu mà gặp những đề tài, những người như thế là vội vắt giò lên cổ, ngoác miệng tận mang, vừa chạy vừa cười. Chỉ biết ề à chuyện cá nhân mình chính là một sự khiêm tốn trung thực. Không thấy cụ nói gì. Nhà cháu đang hài lòng là mình có được cái đức tính khiêm tốn thì máu ngông lại nổi lên, thật oái ăm.Lòng tự hỏi lòng, hay là mình thử viết một bài phân tích, nhận định chính trị gì đấy xem sao. Lòng thiện vội cản, có học hành, nghiên cứu chính trị cái mịa gì đâu mà đòi viết. Lòng tham thì xúi, cứ đem mấy điều hiển nhiên đến nhàm xào qua, xáo lại, triết lý mơ hồ, nhưng cứ nói như phán, đừng dùng chủ từ ngôi thứ nhất số ít, kẹt lắm thì cứ "ta” và “chúng tôi" như một ông thầy dạy văn ngày xưa là xong. Cuối cùng thì Tham vẫn thắng Thiện. Và đã trót thì phải trét. Đang là trộm mà muốn thành cướp thì không thể cứ len lén, cười cười, nói năng nhỏ nhẻ mà phải đạp cửa xông vào, hùng hổ từ tít đầu dù tay chân run rẩy, mặt xanh như nhái.Phải dài dòng phân bua vì nhà cháu sợ các bậc trưởng thượng, trí thức cho là mình thất kính với họ. Nhà cháu gốc là thiếu nông (ngày nhỏ cuốc đất trồng khoai ở Đà Lạt), khi xa nhà lại lăn lóc với mấy đứa cao bồì, gốc dân chăn bò xứ Mỹ. Vi phần tiên học lễ khiếm khuyết nên chuyện vô tình phạm thượng e rằng không tránh được, nhưng nhà cháu thật lòng vẫn kính phục mọi người hảo tâm dù không đồng ý với họ. Bài này của nhà cháu tuy văn từ vẫn còn hơi hướng chợ búa (dù đã có cố gắng che đậy) nhưng nội dung hoàn toàn nghiêm túc, tuyệt không dám có ý chớt nhã. Xin kính.
Có được một đời sống ấm no, không sợ hãi trong một xã hội phát triển ổn định là nguyện vọng của mọi dân tộc trên thế giới. Tất cả những diễn biến lịch sử, những phát triển kinh tế, xã hội, và những khám phá khoa học đều đưa đến một kết luận chính trị chung. Chỉ có thể chế dân chủ với một hệ thống chính phủ mà quyền lực của người cầm quyền đương thời bị giới hạn, kiểm soát theo những nguyên tắc dân chủ mới có thể đáp ứng được nguyện vọng của xã hội một cách dài lâu. Chỉ có một chính quyền được dân bầu lên, bị dân kiểm soát, do dân thay đổi thì mới giữ được bản chất là chính quyền của dân và vì dân.

Sự ưu việt của thể chế dân chủ không còn là một đề tài trong những cuộc tranh luận nghiêm túc ngày nay. Ngay chính độc tài cũng công nhận, cũng phô bày "dân chủ" như một món đồ giả. Giả vụng về, trắng trợn: Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên. Giả mập mờ, lấp liếm: Dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ tư bản. Thế nhưng những cải cách để đưa đến một thể chế dân chủ ở Việt Nam, nếu có, thì vẫn rất chậm, rất miễn cưỡng.

Chính quyền đương thời nào cũng có động lực củng cố và triến khai quyền lực của mình. Khi nền tảng dân chủ chưa có thì chính quyền sẽ chống lại, tìm cách triệt hạ mọi xu hướng đối lập, ngay cả chém giết khi họ thấy cần. Đài Loan và Nam Hàn đều trải qua giai đoạn này dưới thời Tưởng Giới Thạch và Phát Chính Hy (cả hai đều chống cộng). Vấn đề không phải là chủ thuyết hay nhận thức mà là bản chất tự nhiên. Chính quyền Việt Nam đương thời, dân tộc Việt, xã hội Việt cũng không là ngoại lệ.

Trong nước đã xuất hiện một số người chống lại chính quyền hay chính sách của chính quyền. Nhưng nhiều người vẫn ta thán rằng chưa có phong trào và nhân vật đối lập nào có được sự ủng hộ sâu rộng của quần chúng. Một quan điểm đang thịnh hành trong số những người chống chính quyền trên mạng là quá nhiều người Việt chưa đủ trí tuệ để nhận ra tội ác của chế độ, chưa đủ dũng khí để chống lại chính quyền, và vô cảm truớc những tệ nạn xã hội mà nhà nước phải chịu trách nhiệm. Một dân tộc Việt ngu, hèn, và trơ là lý do họ thường nêu ra để giải thích sự tham gia tương đối tẻ nhạt của người dân trong phong trào đấu tranh cho dân chủ.

Sự mâu thuẩn lớn trong quan điểm này là tư duy độc tài - tự đặt mình lên trên để nhìn xuống và miệt thị số đông trái ý mình - của một số người đang lớn tiếng hô hào dân chủ. Có thể nghi ngờ họ không hiểu dân chủ thật sự là gì. Thái độ của họ không tạo ra sự tin tưởng rằng nếu được quần chúng ủng hộ thì họ sẽ không đi vào vết xe đổ của Mohamed Morsi. (Được dân Ai Cập bầu lên sau khi chế độ độc tài của Hosni Mubarak sụp đổ, Morsi và đảng Huynh Đệ Hồi Giáo đã nhanh chóng tập trung quyền lực chống lại mọi hoạt đông dân chủ.) Dù vô tình, chính họ đã là một dẫn chứng hùng hồn cho sự ngụy biện của chính quyền rằng đa đảng, đa nguyên chỉ đưa đến loạn lạc. Không có gì lạ khi họ không được đa số người Việt trong nước hổ trợ.

Một số Đảng viên, cựu Đảng viên lão thành cũng đã nhận ra sự cần thiết của cải cách dân chủ. Nhưng những lời kêu gọi cải cách của họ vẫn chưa và có lẽ cũng sẽ không có hiệu lực gì. Họ không có quyền, không còn nắm những chức vụ quan trọng. Ảnh hưởng của họ, nếu có, chỉ trên bình diện tư duy, tinh thần. Nhưng chính quyền đương thời chống những hoạt động dân chủ không phải vì thiếu suy nghĩ, cần được thức tĩnh mà chỉ vì sự bám víu quyền lợi, một bản chất cố hữu của con người. Những nhân vật như George Washington và Nelson Mandela đều là ngoại lệ, hiếm có. Khách quan mà suy luận thì cái xác suất trong giới lãnh đạo của Việt Nam hiện nay có người đủ quyền và đủ lòng để tiến hành cải cách như Mikhail Gorbachev ở Liên Xô trước đây là rất thấp.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi tất cả những kiến nghị, tâm thư, đề xuất... của những người mong có được một cải cách thể chế thật sự đều đã không đi đến đâu. Ủng hộ dân chủ bằng phương pháp đưa thư, đệ đơn này không những đã không có hiệu quả thực tế mà lại còn có vấn đề về khía cạnh tư tưởng. Có thể nói những người chọn con đường này đã mặc nhiên chấp nhận chính quyền là một thực thể trên dân, có tư cách ban phát cho dân. Dù họ là người có lòng yêu nước, thương dân thì đây vẫn là tư duy lạc hậu của thời phong kiến, hoàn toàn trái ngược với lý tưởng dân chủ.

Có lẽ vì nhận thấy sự quan trọng của tư duy và phương pháp trong cuộc đấu tranh chống độc tài, một số người đã cho rằng cần phải có một đội ngũ trí thức ưu tú để hướng dẫn quần chúng đấu tranh đòi dân chủ. Thành phần trí thức đi tiên phong này có thể sẽ được đào tạo, học hỏi ở nước ngoài rồi về nước lãnh đạo quần chúng. Họ sẽ là những người vững vàng với lý tưởng, không ngại gian khổ, hy sinh. Sách lược này không phải là mới, đã được áp dụng thành công bởi Hồ Chí Minh cùng các đồng chí của ông để chống lại chế độ thực dân Pháp. Nhưng trong thực tế ngày hôm nay thì sách lược này không thể thực hiện được.

Câu hỏi quan trọng là những người trí thức này sẽ nói gì, sẽ làm gì để được quần chúng tín nhiệm, tự nguyện đi theo cho họ hướng dẫn, lãnh đạo. Họ sẽ nói gì, làm gì để người dân chịu gánh thêm gian khổ, có thể bị tù đày và hy sinh mà không sợ cảnh "tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa"? Ngoài trường hợp không thực tiễn là có siêu nhân xuất hiện, câu trả lời khách quan sẽ là gáo nước lạnh tạt vào giấc mơ tranh đấu dân chủ theo sách lược này.

Hơn nữa, khác với những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỷ trước, đây không phải là một cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Tất cả những liên hệ đến thế giới bên ngoài sẽ bị chính quyền đương thời tuyên truyền là tay sai của ngoại bang. "Thế lực thù địch", một khái niệm mơ hồ mà chính quyền vẫn dùng để biện minh cho sự đàn áp những hoạt động dân chủ, đột nhiên sẽ hết mơ hồ. Những người trí thức này sẽ bị chận bắt trước khi họ có cơ hội lãnh đạo, hướng dẫn quần chúng. Đây là một sách lược tranh đấu dân chủ vô kế khả thi nếu người lãnh đạo phải là "trí thức ưu tú" thuộc một trường phái nhất định.

Những diễn biến chung quanh vụ Trung Quốc kéo giàn khoan xâm phạm lãnh hải Việt Nam vào tháng Năm vừa qua đã làm rõ nét hịện trạng giới hạn cũng như một con đường đấu tranh dân chủ có hiệu quả trong tương lai. Phản ứng và thái độ của quần chúng từ những người cành sát biển, phóng viên, đến ngư dân, sinh viên, người già, giới trẻ... chứng tỏ rất nhiều người Việt, có thể là đa số, không hèn và vô cảm, không thờ ơ với vận nước khi có một mục tiêu rõ rệt như chống ngoại xâm. Rất nhiều người đã nhận định chính xác rằng phải có cải cách thể chế mới có thể bảo vệ được chủ quyền lâu dài. Thái độ bí ẩn và phản ứng khó hiểu của chính quyền trong vụ này chứng tỏ rằng đặt tin tưởng vào một chế độ độc tài trong việc bảo vệ chủ quyền chung của đất nước cũng nguy hiểm như tin rằng họ sẽ tạo ra một xã hội chung ngày càng giàu mạnh hơn. Thế nhưng khi câu hỏi ai, tổ chức nào sẽ thay thế nhóm lãnh đạo và Đảng Cộng Sản Việt Nam đuợc đặt ra trên mạng thì những người kêu gọi chống chính quyền đã không có câu trả lời thoả đáng. Phản ứng của họ gây ra ấn tượng là chính họ đang bị bế tắc trong tư duy và trong sự vận động đa đảng, đa nguyên.

Không thể gạt qua câu hỏi này bằng cách nghi ngờ động lực và trình độ của người hỏi như nhiều người vẫn làm. Bất kể người hỏi là ai, đây là một câu hỏi chính đáng cả trên nguyên tắc và trong thực tế đấu tranh dân chủ. Một câu hỏi quan trọng đòi hỏi câu trả lời rõ ràng, nghiêm túc.

Trước hết, đây là một câu hỏi thực tế về thực lực đối kháng. Đưa ra một viễn ảnh cụ thể để chứng tỏ sẽ có đủ đối trọng là một việc làm cần thiết nếu muốn được quần chúng tin theo. Cũng là một việc làm vô vọng. Dù muốn hay không, đại dìện duy nhất cho nước Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc hôm nay là nhà cầm quyền đương thời, một chính quyền đã có quan hệ ngoại giao chính thức với các quốc gia lớn. Không một nước dân chủ nào sẽ nhảy vào hổ trợ vũ lực chống chính quyền đó. Ngoại lệ duy nhất, trên nguyên tắc, là khi có nội loạn, nội chiến gây ra quá nhiều chết chóc cho dân lành. (Thực tế thì vẫn rất khó như phản ứng của Anh và Mỹ với tay độc tài Assad ở Syria đã chứng tỏ.) Thế là cách duy nhất để khả dĩ có đủ đối trọng lật đổ chính quyền vẫn phải là sự ủng hộ đông đảo của quần chúng. Nhưng những người kêu gọi cách mạng, đấu tranh lật đổ chính quyền lại không có sự ủng hộ này. Họ vẫn không thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn tạo ra bởi những tư tưởng lỗi thời, không thích hợp với thực tế ngày nay.

"Nhân dân vùng lên" là một câu khẩu hiệu, không phải là đường lối chính trị. "Dân hèn, ngu, và trơ đông như quân Nguyên" là một biện minh cho sự thất bại chính trị, không phải là một nhận định hữu ích thực tiễn.

Tạo nên một cuộc cách mạng quần chúng để lật đổ chế độ hiện hành chỉ là một ảo tưởng vì hai lý do cơ bản. Thứ nhất là khi không thấy có đối trọng, không thấy có hy vọng thành công, ta thường chọn con đường để có được những nhu cầu thực tế trước mắt theo bản năng sinh tồn. Người mà nhu cầu thiết yếu của họ bị đe doa sẽ có khuynh hướng vùng lên, liều chết kháng cự, nhưng trong thực tế hiện nay thì tỉ lệ của những người như thế không đủ để làm cách mạng.

Lý do thứ hai là sự tàn độc không phải là mục đích, là nguyện vọng của nhà cầm quyền độc tài hiện nay ở Việt Nam. Nó chỉ là phương tiện để giữ vững độc quyền, đặc lợi. Chính quyền sẽ thắt nới tùy hoàn cảnh để vừa giữ vững quyền lợi vừa tránh nạn "cùng tắc biến". Họ đã thành công và không có dấu hiệu gì là họ sẽ thất bại trong tương lai gần như nhiều người vẫn hy vọng.

Hô hào quần chúng xuống đường đối kháng chính quyền và miệt thị họ ngu, hèn khi họ không đáp ứng là việc làm vô ích, phi dân chủ và gây phản cảm, nhất là từ những người đang được sống ngoài vòng cương toả của chế độ độc tài.

Thỉnh nguyện không được, vùng lên lại chẳng có mấy ai. Tiến trình dân chủ sẽ như thế nào?

Câu hỏi "Ai sẽ thay Đảng...?" chính là một cơ hội để những người trí thức chống độc tài khẳng định lại bản chất và mục đích của cuộc tranh đấu cho dân chủ nhằm thu hút sự ủng hộ của quần chúng. Trên nguyên tắc, người đấu tranh dân chủ đúng nghĩa không tranh đấu cho quyền lãnh đạo của một người hay một đảng. Người đấu tranh dân chủ đúng nghĩa tranh đấu cho cái quyền được chọn lựa: Mỗi người dân một lá phiếu. Đấu tranh để có quyền chọn lựa như thế là mới chính là đấu tranh dân chủ. Không phải mọi phong trào chống độc tài đều là đấu tranh dân chủ. Đặt sự chọn lựa đảng phái, chủ thuyết, người lãnh đạo... trước khi có quyền chọn lựa sẽ biến cuộc đấu tranh này thành một sự xung đột giữa những thế lực khác nhau, dễ khiến người dân nghi ngờ hơn là tin cậy.

Cuộc đấu tranh dân chủ chân chính là cuộc đấu tranh để mọi người dân thật sự có quyền chọn lựa. Chọn lựa cụ thể như thế nào thì tùy dân, là quyền của dân. Theo tinh thần bất hủ của Voltaire (khi ông nói về quyền tự do ngôn luận), người đấu tranh dân chủ chân chính hẳn phải có tâm niệm: Dù tôi không đồng ý với sự chọn lựa của họ, tôi vẫn tranh đấu đến cùng cho quyền được chọn lựa của họ. Người đấu tranh dân chủ chân chính sẽ chống lại mọi khuynh hướng giới hạn quyền chọn lựa của người dân. Ngoại trừ độc tài đương quyền, không ai chống lại mục tiêu và con người đấu tranh như thế: Đấu tranh bất bạo động cho quyền được chọn lựa của mỗi người, của mọi người, bất chấp đảng phái và chính kiến.

Chỉ bằng cách khẳng định thật rõ ràng rằng mục tiêu đấu tranh là cái quyền được chọn lựa của mỗi người, của mọi người mới có thể thu hút được sự hổ trợ của đông đảo quần chúng. Từ những người vẫn nghĩ rằng Đảng CSVN đã có công trong sự giành độc lập, thống nhất đất nước cho đến những người vẫn tin rằng CS là một đại họa của dân tộc, tất cả (trừ độc tài đương quyền) đều muốn có được cái quyền ấy. Đây là mục tiêu quan trọng tối hậu. Bên cạnh nó, những tranh chấp về các diễn biến lịch sử, đúng sai của những chủ thuyết chính trị, công tội của những nhân vật lịch sử v.v... chỉ là những vấn đề để nghiên cứu và tranh luận khi trà dư tửu hậu, khi đã có được một thể chế dân chủ.

Dĩ nhiên là độc tài đương quyền sẽ tìm mọi cách, dùng mọi thủ đoạn để trấn áp tất cả những hoạt động đấu tranh dân chủ. Họ sẽ đưa ra mọi lý lẽ để phân hoá, để chứng tỏ cuộc đấu tranh dân chủ chỉ là một sự tranh giành quyền lợi hay có ý đồ làm loạn. Đấu tranh thành công cần phải có đủ một số yếu tố. Quan trọng nhất là làm thế nào để có thể tạo được sự ủng hộ đông đảo, dù âm thầm, của quần chúng. Lý tưởng dân chủ - cái quyền được chọn lựa của mỗi người -  tự nó chỉ là một khái niệm trừu tượng đối với những người phải quần quật, đầu tắt mặt tối để mưu sinh. Tư tưởng và phương pháp đấu tranh cụ thể để có được một tiến trình dân chủ thành công là nội dung của Phần II.

******************************************
Nhà cháu từng tán chuyện Hồng Kông và chủ quan cho rằng tiến trình dân chủ ở Việt Nam xem thế mà khả quan hơn Hồng Kông. Trong lúc nhiều người nức nỡ khen thanh niên HK và chê đè dân Việt, nhà cháu lại khâm phục nhiều người Việt trên mạng vì thấy họ thật có tâm hồn và trình độ. Nhà cháu sẽ xin trình bày tiếp là triển vọng có được một thể chế dân chủ trong tương lai không xa cũng không phải là chuyện viễn vông, "haidza, pó tay, đắng lòng".

Charlie Hebdo - từ bạo dâm đến tự do ngôn luận

Hồi sinh viên mới sang Pháp, một lần tình cờ thấy một tờ Charlie Hebdo (Charlie hàng tuần) ai đó bỏ lại trên tàu điện ngầm. Đó là lần đầu tiên mình biết đến tờ tuần báo chuyên về biếm họa này.

Đập ngay vào mắt là hình vẽ một người đàn ông khỏa thân, hậu môn tóe máu vì bị cưỡng hiếp. Không nhớ rõ là câu chuyện như thế nào, nhưng riêng hình ảnh đó đã làm mình cảm thấy tởm lợm. Từ đó mình coi tờ báo này là một thứ cặn bã văn hóa và không quan tâm đến nữa.

Năm 2011, mình hoàn toàn dửng dưng khi biết trụ sở của tờ báo bị đốt trụi bằng bom xăng trong đêm trước ngày ra một số báo có đăng một loạt ảnh châm biếm Mohamed. Chỉ thấy đó một kết cục hợp lý cho bọn rỗi hơi chuyên đi châm chọc người khác bằng những hình ảnh thô thiển.

Đầu năm 2015, đang làm việc thì biết tin một số phần tử hồi giáo cực đoan xông vào tòa soạn giết chết 12 người. Lần này thì to chuyện rồi, nhưng cũng không hoàn toàn bất ngờ. Những cuộc chiến ở Syria, Iraq, Afghanistan đã tạo ra rất nhiều chiến binh thánh chiến tử vì đạo. Bọn này đã nhiều lần đe dọa sẽ tấn công nước Pháp. Charlie Hebdo, sau vài lần bị dằn mặt nhưng vẫn tiếp tục khiêu khích, có vẻ như đã tự biến mình thành một trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu cho khủng bố. Kết cục thật bi thảm, nhưng dường như có thể đoán trước được.

Điều mình không thể đoán trước được, đó là phản ứng của người Pháp.

Trên Twitter suốt cả ngày hôm đó, các chính trị gia liên tục chia buồn và bày tỏ cảm xúc bằng những từ vựng mà mình chưa bao giờ từng nghe.

Lãnh đạo các đảng phái, từ hữu sang tả, thường ngày chửi nhau như ngóe, hôm nay đứng cạnh nhau để kêu gọi đoàn kết toàn dân trước mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố. Mình đã thật sự xúc động khi nhìn thấy hình ảnh cựu tổng thống Sarkozy đến điện Élysée gặp tổng thống Hollande để bàn về những hành động tiếp theo. Hai nhân vật chỉ mới vài năm trước vẫn còn là tử thù chính trị của nhau.

Và đêm hôm đó, trong bầu không khí hoang mang căng thẳng (vì chưa bắt được hung thủ và vì những vụ tấn công khác, lần này có thể bằng bom, vẫn hoàn toàn có thể xảy ra) hàng vạn người đã đổ ra đường trong tất cả các thành phố lớn để tưởng niệm các nạn nhân. Họ thắp nến và cầm theo dòng chữ “Je suis Charlie” – Tôi là Charlie.

Đã có lúc mình tự hỏi, phản ứng như thế liệu có hơi thái quá chăng ?

Tấn công khủng bố ở Paris, 12 người chết và vài người bị thương !

Kể ra thì có đáng gì với những vụ khủng bố trước đó. Luân Đôn năm 2005 : 56 người chết, 700 bị thương. Madrid năm 2004 : 191 người chết, 2000 bị thương. New York 2001 : 3000 người chết, 6000 bị thương.

Ok, những người chết trong các vụ trước đó chỉ là dân thường. Còn ở Paris là các nhà báo. Nhưng nhà báo thì đã sao? Cũng chỉ là nhân viên của một tờ báo nhảm nhí, số lượng phát hành hàng tuần chưa tới 50 ngàn tờ. Để so sánh, những tờ nhật báo lớn, số lượng phát hành hàng ngày đã gấp 10 lần con số đó. Còn trong số hàng trăm tờ tuần báo ở Pháp, 30 tờ có số lượng phát hành hàng tuần lớn hơn 1 triệu bản, nghĩa là gấp 20 lần Charlie Hebdo.

Đưa ra những con số để thấy Charlie Hebdo là một tờ báo nhỏ, rất ít độc giả. Thậm chí trong những năm 1980 tờ báo có ít độc giả đến nỗi phải đóng cửa suốt gần 10 năm liền. Tóm lại là dân Pháp chả mấy ai thèm đọc. Vậy mà đến khi người ta bị bắn chết lại đổ ra đường vỗ ngực xưng “Tôi là Charlie”. Rốt cuộc, câu đó nghĩa là gì ?

Dần dần mình cũng hiểu ra ý nghĩa của câu đó, và hoàn toàn thay đổi cách nhìn đối với Charlie Hebdo.

Tuy những vụ ầm ĩ nhất là những vụ liên quan đến Hồi giáo, nhưng thật ra Charlie Hebdo châm biếm đả kích vào tất cả mọi thứ, từ những vấn đề trong thời sự hàng ngày cho đến chính trị và tôn giáo.

Về chính trị, họ có thể đả kích tất cả các đảng phái, tất cả các chính trị gia. Chính điều đó đã khiến tờ báo bị chính quyền đình bản nhiều lần. Sau mỗi lần họ đều tìm cách trở lại, và còn lợi hại hơn xưa.

Tương tự, họ cũng có thể châm biếm tất cả các tôn giáo, trong đó nặng nề nhất là Thiên Chúa giáo. Những châm biếm đối với Hồi giáo chỉ là một phần rất nhỏ trong các hoạt động của tờ báo, hơn nữa họ chỉ nhắm đến Hồi giáo cực đoan và khủng bố chứ không phải là đạo Hồi nói chung.

Những cây bút của tờ báo, điển hình là giám đốc xuất bản Stéphane Charbonnier (bút danh Charb), được biết đến như những người không theo khuynh hướng chính trị nào, không có đức tin nào, không có thần tượng nào. Họ hoàn toàn không có ràng buộc nào về mặt tư tưởng. Hoàn toàn tự do. Chính cái tự do đó là điều họ muốn bảo vệ.

Thật ra, tự do ngôn luận không giới hạn chưa bao giờ tồn tại. Trong tất cả các hình thái nhà nước, giới cầm quyền luôn đưa ra những điều luật để giới hạn cái tự do nó lại. Chẳng hạn ở Pháp, nước tiên phong về tự do ngôn luận, bạn không được quyền nói những điều kích động hận thù sắc tộc, tuyên truyền khủng bố, phủ nhận diệt chủng, không được vu khống, lăng mạ người khác, etc. Nói chung tự do ngôn luận ở bất kỳ đâu cũng đều bị giới hạn, chỉ khác nhau ở chỗ bị giới hạn ít hay nhiều thôi.

Bây giờ nếu tưởng tượng ở một nước nào đó, tự do ngôn luận là một vòng tròn, bạn chỉ có thể nói những điều ở bên trong vòng tròn và không được ra ngoài, nếu cố tình bước ra ngoài sẽ bị trừng phạt : tiền, tù, hoặc bắn bỏ. Tuy rằng chỉ khi bước ra ngoài mới bị trừng phạt, nhưng vì đường phân cách đôi lúc không rõ ràng, nên để cho chắc ăn, phần lớn sẽ rút sâu vào bên trong vòng tròn : nói những điều vô thưởng vô phạt, không đụng chạm gì đến ai. Chỉ một số ít người có đủ dũng cảm để tiến sát đến đường biên giới, thậm chỉ thỉnh thoảng thò một chân ra ngoài.

Charlie Hebdo chính là những người như thế. Họ sống thường trực ở biên giới của đường tròn tự do ngôn luận. Chính vì thế trong suốt quá trình tồn tại, họ phải đối mặt với vô số áp lực, vô số vụ kiện. Và cũng vì thế mà họ được coi như một thứ hàn thử biểu của tự do ngôn luận ở Pháp.

May mắn là trong phần lớn các vụ kiện, họ đều thắng. Mỗi lần như vậy, chiến thắng không chỉ của riêng họ mà là của tự do ngôn luận trên cả nước Pháp.

Tuy nhiên, vấn đề trở nên phức tạp hơn với Hồi giáo cực đoan. Với bọn này thì không có luật lệ hay kiện cáo gì cả. Vụ phá hoại trụ sở năm 2011 là một lời cảnh cáo. Tờ báo đứng trước hai lựa chọn, hoặc là thôi không vẽ hình Mohamed nữa. Hoặc là tiếp tục.

Nếu chọn con đường thứ nhất, họ sẽ được an toàn trong thế giới văn minh, đồng thời hoạt động của họ cũng không bị ảnh hưởng gì vì đó chỉ là một chủ đề nhỏ, hơn nữa không vẽ Mohamed thì họ vẫn có cách khác để công kích Hồi giáo cực đoan.

Nhưng họ đã chọn con đường thứ hai. Ngay ngày hôm sau họ đăng một loạt ảnh Mohamed. Charb nói “Nói ra nghe có vẻ đao to búa lớn chứ tôi thà chết đứng còn hơn là phải sống quỳ”. Anh bị liệt vào danh sách kẻ thù đạo Hồi của Al-Qaida và bị dọa giết hầu như mỗi ngày.

Mohamed hết chịu nổi bọn cực đoan.

Thật là khổ sở khi bị bọn dở hơi hâm mộ.Mohamed hết chịu nổi bọn cực đoan. Thật là khổ sở khi bị bọn dở hơi hâm mộ.

Trước những đe dọa đó, họ vẫn tiếp tục hoạt động ở vùng rìa đường tròn. Tiếp tục nói những điều hợp pháp nhưng không ai khác dám nói và thỉnh thoảng lại đăng hình Mohamed.

Ngày 7 tháng 1 năm 2015, Charb bị giết bằng AK47, cùng 4 họa sĩ khác khi đang họp để chọn bài đăng báo.

Những người sống sót quyết định sẽ tiếp tục đi theo con đường đã chọn.

Chỉ có điều lần này họ sẽ không còn đơn độc. Họ có sau lưng tất cả các đảng phái chính trị, tất cả các chính trị gia (những người thường xuyên bị họ công kích), cùng hàng triệu người dân Pháp ủng hộ. Đó chính là ý nghĩa của câu “Tôi là Charlie”.

“Tôi là Charlie” nên tôi yêu tự do và tôi quyết tâm bảo vệ tự do của mình. “Tôi là Charlie” nên muốn giết chết Charlie, phải bước qua xác của tôi.

Đến đây thì câu hỏi “tại sao những người trước đây vốn chẳng đếm xỉa gì đến Charlie Hebdo bây giờ lại xuống đường ủng hộ” có lẽ cũng được trả lời luôn rồi. Có thể bạn cũng thấy bóng dáng Voltaire và câu nói “Tôi chả quan tâm anh nói cái gì, nhưng tôi sẽ dùng cả mạng sống của mình để bảo vệ quyền được nói của anh.” Thật ra thì đây là một sự nhầm lẫn, Voltaire chưa bao giờ viết câu này. Nhưng rõ ràng là không cần đến Voltaire, bất kỳ ai yêu tự do cũng đều hiểu rằng tự do là một giá trị chung của tất cả mọi người, tự do của anh cũng chính là tự do của tôi, người ta đe dọa tự do của anh tức là cũng đang đe dọa tôi, do đó cho dù không quan tâm anh nói cái gì tôi vẫn phải bảo vệ tự do của anh.

Truyền thông nước ngoài khi đưa tin vụ Charlie Hebdo nhiều khi quá chú trọng vào khía cạnh hồi hộp, giật gân, những màn bắn súng rượt đuổi bao vây, etc. Nếu chỉ chú trọng vào những tình tiết gay cấn đó thì hẳn là sẽ khó giải thích được tại sao một tờ báo “nhảm nhí” như Charlie Hebdo lại có thể gắn kết tất cả người Pháp lại với nhau như vậy.

Thứ Hai, 26 tháng 1, 2015

Charlie Hebdo, tự do quá đáng?

Libertas, tượng Pháp trên đất MỹLibertas, tượng Pháp trên đất Mỹ

Tự do ngôn luận thường được coi như một nhân quyền bất khả xâm phạm. Nhưng tại sao thế? Tại sao ta cần có tự do ngôn luận? Trên thực tế thì mọi quyền của con người trong một nước dân chủ đều là một sự thoả thuận của người dân. Một sự thỏa thuận mà họ tin sẽ làm xã hội ngày càng ôn hòa, tiến bộ hơn. Chúng ta nên thỏa thuận như thế nào về quyền tự do ngôn luận để đạt được mục tiêu chung này?

Quyền tự do ngôn luận chỉ có ý nghĩa khi sự diễn đạt cụ thể gây ra căm tức cho đa số trong xã hội, nếu là xã hội dân chủ; hay xúc phạm đến chính quyền, nếu là chế độ độc tài. Không ai cần có quyền tự do ngôn luận để tán thưởng Đảng Cộng Sản Việt Nam tại Hà Nội hay biếm nhẽ Hồ Chí Minh tại Orange County, California. Vì thế mà sự xúc phạm cũng như những giá trị đạo đức phổ cập không phải là cơ sở hợp lý để xác định giới hạn của quyền tự do ngôn luận.

Hiến pháp Mỹ khẳng định rằng chính quyền không được phép ra đạo luật ủng hộ hay ngăn chận những hoạt đông tôn giáo, hoặc giới hạn tự do ngôn luận. Đây là một tư tưởng đặc thù của xã hội và luật pháp Mỹ. Trước Mỹ, mọi nước đều có tôn giáo gắn liền với chính quyền. Quyết định đúng sai về tư tưởng và biểu đạt là thẩm quyền của các nhân vật lãnh đạo tôn giáo và chính quyền. Người dân cứ theo họ mà nói cho phải phép. Một lời trái ý bề trên cũng có thể phạm pháp. Từ ngày lập quốc, một tư tưởng chủ đạo của nước Mỹ là mọi người, trên nguyên tắc, đều có quyền tự do chọn lựa bất cứ điều gì mình thích để trao đổi, để tin, để phổ biến.  Đây một thái độ triệt để bình đẳng và dân chủ của con người độc lập, vừa khiêm tốn vừa ngạo nghễ: Ta không dám ép buộc ai, và cũng không chấp nhận ai ép buộc ta phải suy nghĩ, diễn đạt như thế nào.

Thomas Jefferson cho rằng mọi người đều phải được có cơ hội tiếp cận những suy tư khác nhau trong thị trường tư tưởng (market of ideas) để chọn lựa đúng sai cho chính mình. Không có gì phải sợ những sai lầm trong quan điểm khi mà lý trí được tự do suy xét và lên tiếng phản biện. Đây là cơ sở khiến Hiến pháp Mỹ có ngôn ngữ rộng gần như tuyệt đối để bảo vệ tự do ngôn luận. Lịch sử Mỹ thường có trường hợp một địa phương bị xúc phạm vì một biểu đạt nào đó và ra luật cấm. Thế là có người cố tình vi phạm để ra tòa thách thức sự hợp hiến (Constitutionality) của luật cấm này. Tối Cao Pháp Viện Mỹ đã bát bỏ nhiều đạo luật giới hạn tự do ngôn luận.

Luật Mỹ ngày nay bảo vệ quyền tự do ngôn luận gần như tuyệt đối. Những biếm họa của Charlie Hebdo thuộc dạng ngôn luận được tự do (free speech) tại Mỹ. Tòa án Mỹ sẽ bác bỏ đơn kiện họ. Chính phủ Mỹ không được phép ngăn cản họ. Rộng hơn nữa, khác với luật Pháp và nhiều nước ở châu Âu, ngôn ngữ kỳ thị chủng tộc như chống người da đen, bài người Do Thái, những biểu đạt cuồng loạn như ca ngợi Hitler, tuyên truyền Phát-xít v.v… đều là "ngôn luận được bảo vệ" theo luật Mỹ. Hate Speech IS Free Speech - Xứ sở của Thomas Jefferson đã đi quá đà chăng khi ta nhìn lại những gì đã xảy ra quanh sự kiện Charlie Hebdo? Nước Pháp nên giới hạn tự do ngôn luận không cho phép báng bổ đức tin chăng?

Không. Ngược lại. Xứ sở của Voltaire cần nên có tự do ngôn luận như tại Mỹ.

Trước hết, trong một xã hội pháp quyền, trên cán cân của luật pháp chỉ có một vấn đề duy nhất: Hợp pháp hay phạm pháp. Cấm hay không cấm. Trong một xã hội đa nguyên, luật pháp càng dựa nhiều vào những suy luận khách quan, càng ít phụ thuộc vào những giá trị đạo đức chủ quan thì lại càng được tôn trọng vì tạo được niềm tin là luật pháp công bằng. Thay vì bạo hành, ta càng muốn giải quyết xung đột bằng cách tranh cãi trước tòa. Để được thế, mọi giới hạn ngôn luận phải được thiết lập trên những nguyên tắc khách quan chung. Khi đã không có cùng những tiên kiến, những quan điểm và giá trị cá nhân về tôn giáo, chính trị, và văn hóa, chúng ta rất khó có thể đồng ý thế nào là “xúc phạm quá đáng” cần phải cấm. Đốt lá quốc kỳ và giễu nhại đức tin, hành động nào xúc phạm hơn? Đối với ai?

Tất nhiên ta có thể thỏa thuận với nhau để cùng giới hạn những ngôn luận xúc phạm đến nhiều người. Trong cái xã hội đầy ké né ấy, sẽ ít người bị xúc phạm và cũng chẳng mấy ai sẽ cười. Cái tệ hại nhất của cách ra luật giới hạn ngôn luận theo cảm tính thế này có lẽ đã đựợc tóm gọn trong câu nói đùa của người Mỹ: Muốn có khái niệm về văn chương giá trị và đầu óc hẹp hòi của dân Mỹ thì chỉ cần đọc những tác phẩm đã từng bị cấm ở Mỹ.

Nước Pháp cần thay đổi luật bảo vệ tự do ngôn luận. Nhưng không nên đổi bằng cách cấm nhạo báng đức tin như nhiều người, trong số đó nổi bậc nhất là Giáo Hoàng Francis, đã lên tiếng. Ngược lại, Pháp nên nới rộng tự do ngôn luận như ở Mỹ. Trừ trường hợp gây thiệt hại cụ thể cho người khác hay có khả năng gây rối loạn trước mắt như tuyên bố có bom trong phi trường, hỏa hoạn trong rạp hát... còn thì ai muốn nói gì, viết gì, vẽ gì cũng được tự do tùy thích, tuỳ theo tâm hồn và nhận định cá nhân của mỗi người.

Một hành động hợp pháp dĩ nhiên không có nghĩa là một hành động nên làm, chỉ có nghĩa “làm hay không” là một quyết định cá nhân. Một vài nghệ sĩ Mỹ như Tim Parks và Joe Sacco đã lên tiếng nghi ngờ cái giá trị nếu không nói là đả kích cái nội dung của những biếm họa Charlie Hebdo. Nhưng họ vẫn không đề nghị cấm những biểu đạt như thế. Họ phân biệt rõ ràng giữa quyền được nói và nội dung câu nói. Đây là một điều hiển nhiên với người Mỹ. Họ dĩ nhiên có quyền vẻ biếm họa như Charlie Hebdo hay còn đụng chạm hơn nữa tại Mỹ nhưng họ đã chọn không làm thế, một quyết định cá nhân không phải vì bị ràng buộc bởi luật pháp.

Giới hạn tự do ngôn luận là một việc làm nghiêm trọng, không thể theo cảm xúc nhất thời. Tự do đã được ví như một bức tường đá. Vỡ một tảng đá có thể hỏng cả bức tường. John F. Kennedy và Nelson Mandela đã từng nói rằng "tự do không thể bị phân chia".  Nhà văn Salman Rushdie đã nhắc lại cái khái niệm này để tuyên bố rằng hoặc là có tự do ngôn luận, hoặc là không chứ không thể giới hạn. Rushdie từng bị thủ lãnh Hồi giáo Khomeni ra lệnh đòi giết vì tác phẩm "The Satanic Verses". Ông đã đứng lên hùng hồn bảo vệ quyền tự do diễn đạt làm người Hồi giáo cảm thấy bị xúc phạm của Charlie Hebdo. Hình như Rushdie quên mất rằng Charlie Hebdo không có quyền vẻ tranh kỳ thị người Do Thái. Tại sao “kỳ thị chủng tộc” thì bị cấm mà “báng bổ tôn giáo” thì không? Đây chính là sự khó khăn về lý luận trong cách giới hạn tự do ngôn luận hiện nay tại Pháp.

Tự do ngôn luận không thể bị giới hạn như Salman Rushdie đã dõng dạc tuyên bố. Điều khôi hài là không phải chỉ có những thủ lãnh tôn giáo, vốn không hề giương cao ngọn cờ tự do ngôn luận, mà ngay chính những hậu duệ của Voltaire cũng đã cắt xẻ, đã giới hạn tự do ngôn luận. Có thể nói rằng Pháp đã không thật sự bảo vệ quyền tự do ngôn luận mà chỉ bảo vệ truyền thống và sở thích của số đông, đã chấp nhận "sự độc tài của đa số". Đất nước của Descartes, của Voltaire có thể dùng lý trí để thắng được cảm tính của số đông để bảo vệ quyền tự do ngôn luận không? Nước Mỹ đã làm được điều đó.

Đốt cờ Mỹ, một hành động xúc phạm đến đại đa số người Mỹ, chừng như không có một giá trị nghệ thuật, chính trị nào, vẫn được bảo vệ bởi quyền tự do ngôn luận. Đa số dân Mỹ đòi cấm. Quốc hội Mỹ đã ra luật cấm và tổng thống Bush (cha) đã hoan hỉ ký. Thế là có nhiều người đem cờ ra đốt ngay để bị bắt và có thể kiện lên Tối Cao Pháp Viện. Tòa tuyên bố không thể cấm vì đó là quyền tự do ngôn luận trong Hiến pháp. Đa số dân Mỹ không đồng ý, và cho đến gần đây (2006) nhiều dân biểu vẫn cố chống quyết định của Tòa bằng cách hô hào sửa đổi Hiến pháp. Mấy tay chính trị gia này đã thất bại. Một thiểu số người Mỹ đã sáng suốt thấy rằng tự do ngôn luận quan trọng hơn một biểu tượng của tự do, dù đó là lá cờ từng được giữ gìn bằng xương máu. Cách đây không lâu, khi báo chí đưa tin một số người Nga đem cờ Mỹ ra làm thảm chùi giày, phản ứng chung của người Mỹ là chê họ ấu trĩ và cảm thấy buồn cười hơn là nóng giận.

Vì có quyền tự do ngôn luận gần như tuyệt đối mà mọi thành kiến, hận thù, xung khắc đều được đem ra tranh cãi. Ai muốn nói gì thì nói. Tán thưởng khủng bố, cổ súy cho bạo lực cũng được, chỉ cấm không được dùng bạo lực hay đe dọa dùng bạo lực. Những tư tưởng cao đẹp, tốt lành từ mọi phía sẽ dần dà được chấp nhận một cách tự nhiên như Thomas Jefferson đã suy luận. Để có được một thị trường tư tưởng tự do, xã hội Mỹ đã phải tranh đấu với chính mình và đã chịu trả cái giá của tự do ngôn luận, một cái giá mà không phải người nào, xã hội nào cũng chịu trả.

Hầu hết ai trong đời cũng có lần muốn tát tai một đứa bé xấc xược. Tệ nạn vũ phu trong gia đình ở đâu cũng có. Khuynh hướng dùng bạo lực khi cảm thấy bị xúc phạm, dù là (bạo) lực của luật pháp để cưỡng chế trong xã hội văn minh, có lẽ chỉ là bản chất con người. Tự do ngôn luận đòi hỏi phải chấp nhận cái giá bị xúc phạm mà không được chống lại bằng bạo lực.

Quan trọng hơn trong thực tế, ngôn luận bất bạo động có thể gây ra bạo động. Nhân loại đã từng chứng kiến những cảnh thảm sát gây ra bởi những tư tưởng khích động hận thù, những lời hô hào, kêu gọi chém giết. Để bảo vệ an ninh quốc gia cũng như an toàn cá nhân trong cộng đồng mà không xâm phạm quyền tự do ngôn luận, chính quyền Mỹ đã ráo riết theo dõi, điều tra chận bắt mọi manh nha bạo loạn. Quyền riêng tư (privacy rights) nhiều khi bị vi phạm, càng ngày càng dễ dàng và càng khó nhận biết với kỹ thuật tiến bộ. Đây cũng là một cái giá của tự do ngôn luận.

Độc tài luôn luôn tìm cách chống phá, hạn chế tự do ngôn luận. Điều này hiển nhiên đến nhàm trong mọi chế độ toàn trị. Nhưng những xã hội dân chủ, như Pháp, cũng không nhất thiết đã thoát được sự "độc tài của đa số". Cơ chế luật pháp và chính quyền của Mỹ đã khá hữu hiệu trong việc bảo vệ tự do ngôn luận tuyệt đối, một trong những yếu tố chính để nước Mỹ ngày càng hùng mạnh và càng đa dạng với dân tứ xứ.

Xứ Mỹ, muốn “nhập gia" thì phải tuyên thệ “tùy tục". Mỹ chỉ đòi hỏi một "tục" duy nhất là tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp Mỹ, trong đó tự do ngôn luận đứng đầu (có thể nói bao gồm tự do tôn giáo). Theo Hiến pháp, tự do không thể bị hạn chế chỉ vì đụng chạm đến những khái niệm về truyền thống, văn hóa, tôn giáo, hay ngay cả tổ quốc. Mọi người, trên nguyên tắc, đều được tự do sống theo ý mình, theo chủ quan của truyền thống, đức tin, và văn hóa cá nhân mình, miễn là không gây thiệt hại cụ thể cho người khác. Trong thực tế, Mỹ là một nước ô hợp với trình độ dân trí chung không cao hơn ai, máu bạo động cũng không kém ai, và đã có nhiều làn sóng kỳ thị người nhập cư trong lịch sử... Nhưng vì tinh thần tôn trọng tự do, đặt biệt là tự do ngôn luận, mà xã hội Mỹ ngày càng có nhiều cảm thông giữa những người vốn rất khác nhau.

Khi nhìn vào nước Pháp, một công dân Mỹ có lý do để cho rằng chính quyền Pháp chú trọng vào việc bảo vệ văn hóa Pháp và chuẩn mực của xã hội Pháp hơn là quyền tự do ngôn luận. Người Pháp hình như đã chấp nhận sự giới hạn của tự do ngôn luận trong khuôn khổ của truyền thống văn hóa Pháp. Giới hạn tự do ngôn luận như thế khiến  luật pháp mang màu sắc phân biệt văn hóa thay vì tạo điều kiện để lý trí tự do suy luận và chọn lựa theo tinh thần của Jefferson. Nói một cách chính xác, đấy không phải là tự do ngôn luận đúng nghĩa. Thái độ về tự do ngôn luận của Mỹ thích hợp hơn cho một xã hội đa nguyên. Nhưng...

Pháp có một nền văn hóa lâu đời. Thế giới không cần có một nước Mỹ thứ hai bằng có một nước Pháp đầy bản sắc Pháp. Luật Pháp, người Pháp, chính quyền Pháp hoàn toàn hợp lý và không kém văn minh khi muốn bảo vệ truyền thống văn hóa Pháp như thế. Giới hạn của tự do ngôn luận qua cái nhìn chủ quan của một xã hội, " sự độc tài của đa số", cũng là một cái giá phải trả để bảo vệ truyền thống văn hóa. Khó có thể lý luận rằng cái giá đó quá cao khi nền văn hóa cần được bảo vệ lại văn minh, nhân bản và rực rỡ như văn hóa Pháp. Nhưng ta có thể tin rằng Pháp sẽ còn nhiều xung đột, dễ bị những kẻ quá khích lợi dụng vì nuớc Pháp ngày nay đã có ít nhất là hai luồng văn hóa khác nhau.

(À này, xin có đôi lời cùng một số đồng chí đồng hương. Những giới hạn ngôn luận của Pháp tuy chủ quan nhưng vẫn dựa trên một cơ sở văn minh, nhân bản chứ không phải vì lý do hèn nhát, man rợ như thời Trung cổ của các đồng chí đâu nhé. Và thứ duy nhất các đồng chí bảo vệ bằng cách tuỳ tiện chà đạp quyền tự do ngôn luận chỉ là xôi thịt của các đồng chí chứ không phải văn hóa, văn minh Việt Nam gì đâu đấy nhé. Không lừa được ai đâu.)
nguồn: https://www.facebook.com/notes/chanh-nguyen/charlie-hebdo-tự-do-quá-đáng/1018236004856846
tham khảo thêm: https://www.facebook.com/10152957842029654

Thứ Tư, 21 tháng 1, 2015

Ngưng lại những điều đang giữ chân bạn

“Không ai có thể quay ngược lại thời gian để bắt đầu lại từ đầu, nhưng bất kỳ ai cũng có thể bắt đầu từ ngày hôm nay và tạo ra một kết thúc mới”.
Quả là một nhận xét đúng đắn. Nhưng trước khi bắt tay vào thực hiện quá trình chuyển đổi này, bạn phải ngưng làm những việc đang giữ chân bạn.
Dưới đây là một số ý tưởng giúp bạn bắt đầu:
1. Đừng mất thời gian với những ngã rẽ sai lệch.
Cuộc sống quá ngắn ngủi, bạn không nên dành thời gian với những người chỉ biết hút cạn nguồn hạnh phúc của mình. Nếu ai đó muốn bạn có mặt trong cuộc sống của họ, họ sẽ tự dành ra chỗ cho bạn. Bạn không phải đấu tranh để giành giật lấy một vị trí nào cả. Đừng bao giờ ép mình vào mối quan hệ với những người coi thường giá trị của bạn. Và hãy nhớ, những người bạn thật sự của bạn không phải là những người ở bên cạnh bạn khi bạn thành công, mà là những người ở bên cạnh bạn khi bạn gặp khó khăn.
2. Đừng chạy trốn các rắc rối của mình.
Hãy đối diện với chúng. Đây không phải là việc dễ dàng. Không ai có khả năng xử lý hoàn hảo mọi vấn đề họ gặp phải. Chúng ta cũng không thể ngay lập tức mà giải quyết trọn vẹn một khó khăn. Chúng ta không sinh ra để làm như vậy. Trên thực tế, chúng ta sinh ra để thất vọng, buồn chán, đau khổ, và vấp ngã, rồi sau đó đúc rút được kinh nghiệm sống cho bản thân, đúc rút được giá trị đích thực của cuộc sống. Bởi vì đó là toàn bộ mục đích của cuộc sống – đối mặt với vấn đề, học hỏi, thích nghi, và xử lý chúng. Chính điều này đã rèn luyện chúng ta trở thành con người như chúng ta hiện nay.
3. Đừng nói dối bản thân mình.
Bạn không thể nói dối người khác, và bạn cũng không thể nói dối chính bản thân mình. Cuộc sống của chúng ta chỉ tiến bộ khi chúng ta nắm bắt các cơ hội và nhìn nhận đúng những điểm yếu và điểm mạnh của bản thân; và cơ hội đầu tiên và cũng là khó khăn nhất mà chúng ta có thể nắm bắt lấy là trung thực với chính mình.
4. Hãy vì người khác, nhưng cũng đừng coi nhẹ bản thân.
Điều đau đớn nhất là vì yêu người khác quá mà đánh mất bản thân mình, và quên mất rằng mình cũng là người đặc biệt. Vâng, hãy giúp đỡ người khác; nhưng bạn cũng phải giúp đỡ chính mình nữa chứ. Nếu có giây phút nào dành cho bạn để bạn theo đuổi đam mê và làm điều gì đó quan trọng với mình, thì giây phút đó chính là ngay lúc này đây.
5. Đừng cố gắng làm người khác.
Một trong những thách thức lớn nhất trong cuộc sống là làm chính mình trong một thế giới cứ chực biến bạn thành người giống như mọi người khác. Lúc nào cũng sẽ có người xinh đẹp hơn bạn, thông minh hơn bạn, trẻ trung hơn bạn, nhưng họ sẽ không bao giờ là bạn cả. Đừng thay đổi để mong người khác thích mình. Hãy là chính mình, và sẽ có người yêu con người thật của bạn.
6. Đừng bận tâm với quá khứ.
Bạn không thể bắt đầu một chương mới trong cuộc đời nếu cứ đọc đi đọc lại chương cũ.
7. Đừng sợ mắc sai lầm.
Làm việc gì đó rồi mắc sai lầm còn hiệu quả gấp 10 lần so với không làm gì cả. Mỗi thành công đều có một vệt dài những thất bại đằng sau nó, và mỗi thất bại đều dẫn đường tới thành công. Suy cho cùng, bạn sẽ hối hận về những điều mình KHÔNG làm nhiều hơn là về những điều mình đã làm.
8. Đừng trách móc bản thân vì những sai lầm đã qua.
Có thể chúng ta yêu nhầm người và đau khổ về những điều không xứng đáng, nhưng dù mọi việc có tồi tệ tới mức nào, thì cũng có một điều chắc chắn: sai lầm giúp chúng ta tìm được đúng người, đúng thứ phù hợp với chúng ta. Chúng ta ai cũng có lúc mắc sai lầm, ai cũng có khó khăn, và thậm chí tiếc nuối về những việc trong quá khứ. Nhưng bạn không phải là sai lầm của mình, bạn không phải là khó khăn của mình, và ngay lúc này đây, bạn có trong tay sức mạnh để xây dựng nên hiện tại và tương lai của chính mình. Mỗi một điều từng xảy ra trong cuộc sống của bạn đều góp phần chuẩn bị cho bạn đón nhận một khoảnh khắc mới chưa đến.
9. Đừng cố công mua hạnh phúc.
Nhiều thứ chúng ta mong mỏi có được có giá đắt. Nhưng sự thật là, những gì thực sự khiến chúng ta hài lòng lại hoàn toàn miễn phí – đó là tình yêu, là tiếng cười, và là những giây phút miệt mài theo đuổi đam mê của mình.
10. Đừng tìm kiếm hạnh phúc ở người khác.
Nếu bạn không cảm thấy hạnh phúc với chính con người bên trong của mình, thì bạn sẽ chẳng thể nào có được hạnh phúc lâu dài với bất kỳ người nào khác. Bạn phải tạo ra sự ổn định trong cuộc sống của mình trước rồi mới nghĩ tới chuyện chia sẻ cuộc sống đó với người khác được.
11. Đừng lười nhác.
Đừng nghĩ ngợi quá nhiều, bởi có thể bạn sẽ tạo ra một rắc rối không đáng có. Hãy đánh giá tình hình và đưa ra hành động dứt khoát. Bạn không thể thay đổi điều mà mình không muốn đối mặt. Tiến bộ bao hàm rủi ro. Chấm hết! Bạn không thể đứng một chỗ mà hy vọng mình sẽ tới được đích.
12. Đừng nghĩ rằng mình chưa sẵn sàng.
Khi một cơ hội xuất hiện, không có ai cảm thấy mình đã sẵn sàng 100% để đón nhận nó. Bởi vì phần lớn những cơ hội lớn lao trong cuộc đời đều đòi hỏi chúng ta phải phát triển vượt quá “vùng thoải mái” của mình – điều này có nghĩa là ban đầu, chúng ta sẽ không cảm thấy hoàn toàn thoải mái.
13. Đừng tham gia vào các mối quan hệ vì những lý do sai lầm.
Cần phải lựa chọn các mối quan hệ một cách khôn ngoan. Ở một mình còn tốt hơn là giao tiếp với người xấu. Bạn không cần phải vội vàng. Điều gì phải đến, sẽ đến – và nó sẽ đến đúng lúc, với đúng người, và vì lý do tốt đẹp nhất. Hãy yêu khi bạn đã sẵn sàng, chứ đừng yêu khi bạn cảm thấy cô đơn.
14. Đừng từ chối những mối quan hệ mới chỉ bởi vì các mối quan hệ cũ không đem lại kết quả tốt đẹp.
Trong cuộc sống, rồi bạn sẽ nhận ra rằng mỗi người bạn gặp đều có ý nghĩa riêng cho bản thân bạn. Một số người sẽ thử thách bạn, một số người sẽ lợi dụng bạn, và một số khác sẽ dạy dỗ bạn. Nhưng điều quan trọng nhất là, một số người sẽ giúp bạn thể hiện được khía cạnh tốt đẹp nhất của mình.
15. Đừng cố cạnh tranh với tất cả mọi người
Đừng lo lắng khi thấy người khác giỏi hơn mình. Hãy tập trung vào việc “phá kỷ lục” của chính mình mỗi ngày. Thành công chỉ là một cuộc chiến giữa BẠN và BẢN THÂN BẠN mà thôi.
16. Đừng ghen tị với người khác.
Ghen tị là hành động đếm các “điểm cộng” của người khác thay vì đếm các “điểm cộng” của mình. Hãy tự hỏi bản thân mình câu này: “Mình có điểm gì mà ai cũng mong có?”
17. Đừng than vãn và tự thương hại bản thân.
Các khó khăn xuất hiện trong cuộc sống đều có lý do riêng của chúng – nhằm hướng bạn theo một cung đường phù hợp cho bạn. Có thể khi khó khăn xuất hiện, bạn sẽ không nhận thấy hay không hiểu được điều đó, và có thể đó là một trải nghiệm khó khăn. Nhưng bạn hãy thử nghĩ về những khó khăn mình đã trải qua trong quá khứ mà xem. Bạn sẽ thấy rằng, cuối cùng, chúng đã hướng bạn tới một địa điểm tốt hơn, trở thành một con người tốt hơn, có tâm trạng hay hoàn cảnh tích cực hơn. Vì thế, hãy cười lên! Hãy cho mọi người thấy rằng bạn của ngày hôm nay mạnh mẽ gấp nhiều lần so với bạn của ngày hôm qua – và bạn sẽ là như thế.
18. Đừng giữ mãi những hằn học
Đừng sống với niềm oán ghét trong tim. Bạn sẽ khiến mình đau khổ hơn so với những gì mà người mà bạn căm ghét có thể làm với bạn. Tha thứ không phải là nói: “Những gì anh đã làm với tôi là chấp nhận được”, mà là: “Tôi sẽ không để hạnh phúc của mình bị hủy hoại vĩnh viễn bởi những gì anh đã làm với tôi”. Tha thứ là câu trả lời… hãy buông ra đi, hãy tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn, hãy giải phóng bản thân bạn! Và hãy nhớ, tha thứ không chỉ vì người khác, mà còn vì chính bạn nữa đấy. Hãy tha thứ cho bản thân mình, hãy tiếp tục cuộc sống, và cố gắng làm tốt hơn trong tương lai.
19. Đừng để người khác kéo bạn xuống vị trí ngang bằng với họ
Đừng hạ thấp các tiêu chuẩn của mình để thích nghi với những người không chịu nâng cao các tiêu chuẩn của họ.
20. Đừng lãng phí thời gian giải thích bản thân cho người khác.
Bạn bè bạn sẽ không cần bạn phải giải thích gì cả, còn với kẻ thù, thì dù bạn có giải thích bao nhiêu họ cũng chẳng tin đâu. Hãy cứ làm những gì mà thâm tâm bạn biết là đúng.
21. Đừng miệt mài làm đi làm lại một việc mà không có “khoảng ngừng”
Thời điểm phù hợp để bạn hít một hơi thật sâu là khi bạn không có thời gian cho việc đó. Nếu bạn tiếp tục làm những gì mình đang làm, thì bạn sẽ tiếp tục nhận được những gì mà bạn đang nhận được. Đôi khi bạn cần phải tạo ra cho mình một khoảng cách để có thể nhìn nhận sự việc một cách rõ ràng.
22. Đừng bỏ qua điều kỳ diệu của những khoảnh khắc nhỏ nhoi
Hãy tận hưởng những điều nhỏ nhặt, bởi vì biết đâu một ngày nào đó, bạn sẽ ngoảnh nhìn lại để rồi nhận ra rằng chúng là những điều lớn lao. Phần tốt đẹp nhất trong cuộc sống của bạn sẽ là những khoảnh khắc nhỏ bé không tên khi bạn dành thời gian mỉm cười với ai đó quan trọng đối với bạn.
23. Đừng cố làm mọi thứ trở nên hoàn hảo
Thế giới thực không vinh danh những người cầu toàn; nó sẽ trao phần thưởng cho những người hoàn thành công việc.
24. Đừng đi theo con đường ít bị cản trở nhất
Cuộc sống không dễ dàng, nhất là khi bạn lên kế hoạch đạt được điều gì đó có giá trị. Đừng chọn con đường đi dễ dàng. Hãy làm điều gì đó phi thường.
25. Đừng hành động như thể mọi việc đều tốt đẹp trong khi thực tế không phải như vậy
Suy sụp một lát cũng không sao. Bạn không nhất thiết lúc nào cũng phải tỏ ra mạnh mẽ, và cũng không cần phải liên tục chứng minh rằng mọi việc đều diễn ra tốt đẹp. Bạn cũng không nên lo lắng về chuyện người khác đang nghĩ gì – hãy khóc nếu bạn cần khóc – điều đó cũng tốt cho sức khỏe của bạn mà. Càng khóc sớm, bạn càng sớm có khả năng mỉm cười trở lại.
26. Đừng đổ lỗi cho người khác về các rắc rối của bạn
Khả năng thực hiện được ước mơ của bạn tỉ lệ thuận với khả năng bạn tự nhận trách nhiệm cho cuộc sống của mình. Khi trách cứ người khác vì những gì bạn đang trải qua, nghĩa là bạn đang chối bỏ trách nhiệm – bạn đang trao cho người khác quyền kiểm soát phần cuộc sống đó của mình.
27. Đừng cố gắng làm vừa lòng tất cả mọi người
Đó là điều không thể xảy ra, và nếu bạn cứ cố công làm như vậy, bạn sẽ kiệt sức mất thôi. Nhưng làm cho một người mỉm cười cũng có thể thay đổi cả thế giới. Có thể không phải là toàn bộ thế giới, mà chỉ là thế giới của riêng người đó thôi. Vì thế, hãy thu hẹp sự tập trung của mình lại.
28. Đừng lo lắng quá nhiều.
Lo lắng sẽ không giúp giải thoát các gánh nặng của ngày mai, nhưng nó sẽ tước bỏ đi niềm vui của ngày hôm nay. Một cách để bạn có thể kiểm tra xem có nên mất công suy nghĩ về điều gì đó hay không là tự đặt ra cho mình câu hỏi này: “Điều này có quan trọng gì nữa không trong một năm tiếp theo? Ba năm tiếp theo? Năm năm tiếp theo?” Nếu câu trả lời là không, thì nó không đáng để bạn bận tâm đâu.
29. Đừng tập trung vào những gì bạn không mong muốn xảy ra
Hãy tập trung vào những gì bạn thực sự muốn xảy ra. Suy nghĩ tích cực là “tiền đề” cho mọi thành công vĩ đại. Nếu mỗi sáng bạn thức dậy với tâm niệm rằng ngày hôm nay sẽ có điều tuyệt vời xảy ra trong cuộc sống của mình, và bạn để tâm chú ý, thì rồi thường là bạn sẽ nhận thấy rằng niềm tin của mình là đúng.
30. Đừng là người vô ơn.
Dù bạn đang ở hoàn cảnh tốt đẹp hay tồi tệ, hãy thức dậy mỗi ngày với niềm biết ơn cuộc sống của mình. Ở nơi nào đó, người khác đang đấu tranh trong tuyệt vọng để giành giật lấy cuộc sống của họ. Thay vì nghĩ về những gì bạn không có, hãy nghĩ về những gì bạn đang có mà người khác không có.
Song Liên tổng hợp và biên soạn, nguồn: https://daikynguyenvn.com/van-hoa-nghe-thuat/ngung-lai-nhung-dieu-dang-giu-chan-ban.html