Thứ Bảy, 3 tháng 9, 2016
tư liệu
http://mobile.nytimes.com/2013/04/18/world/asia/henry-a-prunier-army-operative-who-helped-trained-vietnamese-troops-dies-at-91.html?
Thứ Sáu, 26 tháng 8, 2016
Muốn ăn sạch phải có chính quyền sạch
nguồn : https://www.facebook.com/trung.bao/posts/10207147845230149
Giống như nhiều người trong chúng ta, cô ca sĩ Mỹ Linh giờ đây sẽ phải trả một mức giá cao hơn nhiều nếu cô muốn ăn hải sản không có xyanua từ nhà máy Formosa. Trường hợp này hoàn toàn đúng với phát biểu của cô được báo chí dẫn lại trong hôm nay: "muốn rẻ đừng đòi hỏi thực phẩm sạch".
Tiếc thay, hải sản - một loại thực phẩm bị bẩn lại không phải vì người nông dân hám lời làm bậy mà bởi vì những kẻ đã tiếp tay đưa cái quần thể Formosa khốn nạn kia vào để giết chết cả vùng biển miền Trung. Vậy chúng ta đang phải trả tiền nhiều hơn cho món hải sản mà chẳng liên quan mẹ gì đến nông dân hay trình độ của người tiêu dùng.
Cô Mỹ Linh có thể hát rất hay nhưng khi cô phát biểu: "Thực phẩm sạch thì phải đắt, không thể rẻ được, muốn rẻ thì đừng đòi đồ sạch, bản thân nhà tôi trồng cũng thấy rất đắt" thì tôi đồ rằng cô ngày thường ít quan tâm đến đời sống của người nông dân.
Chỉ đơn giản google sẽ thấy người nông dân đang gánh trên 1.000 (một ngàn) loại phí, lệ phí khác nhau - Theo Vnexpress. Chắc chắn không ai muốn làm cái việc thất đức là rải độc vào rau mình trồng để đem đi bán, nhưng nếu không có thuốc tăng trưởng thì làm sao rau lớn đủ nhanh để đem ra chợ, để kịp quay vòng đồng tiền mà trồng vụ sau, mà kịp lo cái ăn, kịp đóng học phí cho con, kịp đóng cái thứ phí khác nếu không thì bị khiêng luôn cả cái giường. Và để kịp có tiền đóng các loại phí kể trên. Chẳng phải giá thành sản phẩm được cấu thành từ tất cả điều này đó sao?
Đừng lấy vườn rau kiểng của mình đang trồng để khái quát cho cả nền kinh tế nông nghiệp. Như tất cả các lĩnh vực kinh tế khác, giá thành một sản phẩm nông nghiệp luôn luôn phụ thuộc vào các chi phí bỏ ra. Các chi phí này lại phụ thuộc rất lớn vào sự trong sạch của bộ máy chính quyền. Kể cả sự kiểm soát chất lượng nông sản cũng hoàn toàn nằm ở sự trong sạch này. Và, để có được sự trong sạch thì cần có những định chế giám sát khác trong xã hội. Vâng, nếu cô chưa hiểu thì tôi nói rằng có dân chủ mới có rau sạch.
Tôi không tin vào sự tự giác lâu dài của mỗi cá nhân khi đứng trước cái lợi của bản thân, dù đó là người Mỹ hay người Việt. Một anh nông dân Mỹ nếu ngày này qua tháng khác không bị kiểm soát bởi những quy định gắt gao và nhận thấy mình có thể đút lót các cơ quan kiểm soát chất lượng thì rồi đến lúc anh ta cũng sẽ trồng rau phun nhớt, bón phân công nghiệp và tiêm thuốc tăng trưởng.
Giá cả hàng hóa lại phụ thuộc vào thị trường, một ca sĩ như Mỹ Linh cũng có thể nhận ra rằng khi cung - cầu không cân bằng thì thị trường sẽ tự điều chỉnh giá cả. Phát ngôn về việc muốn ăn sạch thì phải trả mắc là một ví dụ về nhận thức này. Tuy nhiên, phát biểu của cô giúp rất nhiều cho việc bao biện của những cơ quan chịu trách nhiệm trong việc kiểm soát chất lượng thực phẩm đối với sự tắc trách của mình. Bởi vì, ngoài rau thì người ta còn ăn cả thịt cá trứng sữa... và những thứ này thì không thể trồng được bằng khu vườn kiểng trên mái hoặc trong sân căn biệt thự của cô Mỹ Linh được.
Thật ngán ngẩm khi nhìn toàn xã hội đang phải quay lại thời tự cung tự cấp để bảo vệ mình trước thực phẩm bẩn tràn lan. Nếu muốn phát biểu, lần sau cô hãy nói về trách nhiệm của các cơ quan quản lý, người nổi tiếng không thể nói lung tung được đâu Mỹ Linh ạ.
Tôi gợi ý cho cô đây: Muốn có thực phẩm sạch mà không mắc? Chúng ta cần một chính quyền sạch.
Trung Bảo
Thứ Năm, 26 tháng 5, 2016
Toàn văn diễn văn của Tổng thống Obama tại trung tâm hội nghị quốc gia Mỹ Đình | Phạm Nguyên Trường
Toàn văn diễn văn của Tổng thống Obama tại trung tâm hội nghị quốc gia Mỹ Đình | Phạm Nguyên Trường: Xin chào ! Xin chào Việt Nam !
Nguồn: https://www.whitehouse.gov/the-press-office/2016/05/24/remarks-president-obama-address-people-vietnam
Cám ơn các bạn. Cám ơn các bạn rất nhiều. Cám ơn chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón và tiếp đãi nồng nhiệt trong chuyến thăm này. Và cám ơn các bạn có mặt ở đây ngày hôm nay. Chúng ta có những người Việt Nam đến từ khắp đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.
Trong chuyến thăm này, tôi thật sự xúc động vì lòng tử tế của người Việt Nam, người Việt Nam vốn nổi tiếng là vì như thế. Tôi cảm nhận được tình bạn giữa hai dân tộc chúng ta trong những người đứng hai bên đường phố, mỉm cười và vẫy tay chào tôi. Đêm hôm qua, tôi đến thăm Phố Cổ Hà Nội và đã dùng vài món ăn nổi tiếng của Việt Nam. Tôi đã ăn thử bún chả. Uống vài chai bia Hà Nội. Nhưng tôi phải nói, những con đường đông đúc của thành phố này, tôi chưa bao giờ trông thấy nhiều xe máy như thế. Tôi chưa thử đi qua đường, nhưng có lẽ khi tôi trở lại, các bạn có thể chỉ cho tôi cách đi qua đường.
Tôi không phải là tổng thống Mỹ đầu tiên đến Việt Nam trong thời gian gần đây. Nhưng tôi là tổng thống đầu tiên, như rất nhiều người trong các bạn, đã trưởng thành sau cuộc chiến giữa hai nước của chúng ta. Khi những người lính Hoa Kỳ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, tôi mới 13 tuổi. Vì vậy, lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với Việt Nam và người Việt, là khi tôi đang ở tuổi trưởng thành ở Hawaii, cùng với cộng đồng người Mỹ gốc Việt đầy tự hào ở đó.
Cũng trong thời gian đó, nhiều người ở đất nước này trẻ hơn tôi rất nhiều. Giống như hai cô con gái tôi, nhiều người trong các bạn đã sống cả đời mình chỉ biết có một điều – đó là hòa bình và các quan hệ đã được bình thường hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Do đó, tôi đến đây với ý thức về quá khứ, với ý thức về lịch sử khó khăn của chúng ta, nhưng hướng tới tương lai – sự thịnh vượng, an ninh và nhân phẩm mà chúng ta có thể cùng nhau thúc đẩy.
Tôi cũng đến đây với lòng tôn trọng sâu sắc đối với những di sản cổ xưa của Việt Nam. Trong suốt hàng ngàn năm, những người nông dân đã trồng cấy trên những mảnh đất này –những chiếc trống Đông Sơn đã cho chúng ta biết lịch sử như thế. Tại khúc quanh này của dòng sông, Hà Nội đã đứng vững trong hơn một ngàn năm. Thế giới yêu chuộng lụa và tranh Việt Nam, và Văn Miếu đồ sộ là nhân chứng cho tinh thần hiếu học của các bạn. Mặc dù vậy, trong suốt hàng trăm năm, vận mệnh của các bạn thường bị những nước khác quyết định. Đất nước yêu quý của các bạn không phải lúc nào cũng thuộc về các bạn. Nhưng như cây tre, tinh thần quật cường của dân tộc Việt đã được Lý Thường Kiệt thể hiện: “Sông núi nước Nam vua Nam ở. Rành rành đã định tại Sách Trời.”
Hôm nay, chúng ta cũng ôn lại giai đoạn lịch sử kéo dài hơn giữa người Việt và người Mỹ, nhưng lại thường xuyên bị bỏ qua. Hơn 200 năm trước, khi Tổ Phụ Lập Quốc của chúng tôi, Thomas Jefferson, tìm giống lúa cho trang trại của mình, ông đã tìm gạo Việt Nam, mà ông nói là “nổi tiếng vì nhìn thì trắng nhất, ăn thì thơm ngon nhất, và có năng suất cao nhất.” Chẳng bao lâu sau, những thương thuyền Mỹ đã đến các hải cảng của các bạn để mua và bán.
Trong Thế chiến II, người Mỹ đã đến đây để hỗ trợ cuộc kháng chiến của các bạn nhằm chống lại ách chiếm đóng. Khi những phi công Mỹ bị bắn rơi, người dân Việt Nam đã giúp giải cứu họ. Và trong ngày Việt Nam tuyên bố độc lập, nhiều người ở thành phố này đã đổ ra đường, và Hồ Chí Minh đã nhắc tới Tuyên Ngôn Độc Lập Mỹ. Ông nói, “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền bất khả tương nhượng; trong đó, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Trong một thời đại khác, việc tuyên xưng những lý tưởng mà chúng ta cùng nhau chia sẻ đó và câu chuyện chung về việc lật đổ chủ nghĩa thực dân có lẽ đã đưa chúng ta xích lại gần nhau sớm hơn nữa. Nhưng không những thế, những cuộc đối đầu trong Chiến tranh Lạnh và sự sợ hãi chủ nghĩa cộng sản đã lôi chúng ta vào cuộc xung đột. Tương tự như những cuộc xung đột khác trong suốt lịch sử loài người, một lần nữa, chúng ta biết rõ hơn một sự thật cay đắng – rằng chiến tranh, không phụ thuộc vào ý định của chúng ta, chỉ mang đến đau khổ và bi kịch.
Tại đài tưởng niệm chiến tranh cách đây không xa, và với mỗi bàn thờ trong từng gia đình trên khắp đất nước này, các bạn đang tưởng nhớ khoảng 3 triệu người Việt, binh sỹ và thường dân, ở cả hai bên, đã thiệt mạng. Tại bức tường tưởng niệm của chúng tôi ở Washington, chúng tôi có thể chạm vào tên của 58.315 người Mỹ đã bỏ mình trong cuộc xung đột đó. Ở cả hai đất nước của chúng ta, các cựu chiến binh và gia đình những người đã ngã xuống vẫn còn đau đớn vì bạn bè và người thân đã mất. Cũng như chúng tôi ở nước Mỹ đã nhận thức được rằng, ngay cả khi chúng tôi bất đồng về cuộc chiến, chúng tôi vẫn luôn phải vinh danh những người đã chiến đấu và chào đón họ trở về với sự trân trọng mà họ xứng đáng được hưởng, ngày hôm nay, chúng ta, người Việt và người Mỹ, có thể đến với nhau và thừa nhận nỗi đau và những hy sinh của cả hai bên.
Gần đây hơn, trong hai thập kỷ qua, Việt Nam đạt được tiến bộ lớn lao, và hôm nay thế giới có thể thấy những bước tiến dài mà các bạn đã làm được. Với những cải cách kinh tế và thỏa thuận về mậu dịch, trong đó có những thỏa thuận với Hoa Kỳ, các bạn đã bước vào nền kinh tế toàn cầu, các bạn đang bán sản phẩm của mình ra khắp thế giới. Nhiều khoản đầu tư nước ngoài nữa đang đổ vào. Và với một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Châu Á, Việt Nam đã tiến lên để trở thành quốc gia có thu nhập trung bình.
Chúng ta thấy tiến bộ của Việt Nam trong những tòa tháp và cao ốc của Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, trong những thương xá mới và những trung tâm đô thị. Chúng ta thấy điều đó trong những vệ tinh mà Việt Nam đưa vào không gian và một thế hệ mới lên mạng, mở ra những doanh nghiệp mới và điều hành những thương vụ mới. Chúng ta thấy điều đó trong hàng chục triệu người Việt kết nối với nhau trên Facebook và Instagram. Và các bạn không chỉ đăng ảnh tự chụp – mặc dù tôi nghe nói các bạn chụp rất nhiều – và đến nay, đã có một số người xin tự chụp ảnh cùng với tôi. Các bạn cũng đang lên tiếng vì những mục đích mà các bạn quan tâm, như cứu cây cổ thụ ở Hà Nội.
Như thế, toàn bộ sự năng động này tạo ra tiến bộ thật sự trong cuộc sống của người dân. Ở nước Việt Nam này, các bạn đã giảm đáng kể tình trạng nghèo khổ cùng cực, các bạn đã gia tăng thu nhập trong từng hộ gia đình và đưa nhiều triệu người vào tầng lớp trung lưu đang phát triển rất nhanh về. Đói nghèo, bệnh tật, tỉ lệ tử vong ở trẻ em và phụ nữ, tất cả đều giảm. Số người có nước uống sạch và điện, số trẻ em trai và gái đến trường, và tỉ lệ biết đọc biết viết của các bạn – đều tăng. Đây là tiến bộ phi thường. Đây là điều mà các bạn đã đạt được trong một khoảng thời gian rất ngắn.
Và khi Việt Nam chuyển hóa, mối quan hệ giữa hai quốc gia chúng ta cũng chuyển hóa. Chúng ta đã học một bài học của thiền sư Thích Nhất Hạnh, khi ông nói: “Trong cuộc đối thoại chân thành, cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi”. Bằng cách này, chính cuộc chiến đã ngăn cách chúng ta lại trở thành suối nguồn chữa lành vết thương. Nó tạo điều kiện cho chúng tôi tìm kiếm những người mất tích và cuối cùng là đưa họ về nhà. Nó tạo điều kiện cho chúng tôi giúp tháo gỡ mìn và bom chưa nổ, bởi vì không thể để cho bất cứ đứa trẻ nào bị mất chân chỉ vì chơi ở bên ngoài. Ngay trong khi chúng tôi tiếp tục hỗ trợ những người Việt khuyết tật, trong đó có trẻ em, chúng tôi cũng tiếp tục giúp dọn sạch Chất Da Cam – dioxin – để cho Việt Nam có thể lấy lại thêm đất. Chúng tôi tự hào về công việc chúng ta cùng làm ở Đà Nẵng, và chúng tôi hy vọng sẽ giúp các nỗ lực của các bạn ở Biên Hòa.
Chúng ta hãy đừng quên rằng sự hòa giải giữa hai đất nước chúng ta đã được dẫn dắt bởi các cựu chiến binh của chúng ta, những người đã từng chạm trán với nhau trên chiến trường. Hãy nghĩ đến Nghị Sĩ John McCain, người từng bị giam nhiều năm tại đây như là một tù binh chiến tranh, ông đã gặp Tướng Giáp, người nói rằng hai nước chúng ta không nên là kẻ thù mà là bạn bè. Hãy nghĩ đến tất cả các cựu chiến binh, Việt và Mỹ, đã từng giúp chúng ta chữa lành vết thương và xây dựng những mối quan hệ mới. Ít người đã làm được nhiều về mặt này trong những năm qua hơn cựu trung úy Hải quân, và giờ đây là Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, John Kerry, người cũng đang có mặt ở đây. Và thay mặt cho tất cả chúng ta, John, chúng tôi cám ơn ông vì những nỗ lực phi thường của ông.
Vì các cựu chiến binh của chúng ta đã chỉ đường cho chúng ta, vì các chiến sĩ đã có can đảm theo đuổi hòa bình, hai dân tộc chúng ta giờ đây gần nhau hơn bao giờ hết. Thương mại của chúng ta đã tăng vọt. Các sinh viên và học giả của chúng ta cùng nhau học hỏi. Chúng tôi nhận nhiều sinh viên Việt Nam hơn bất cứ nước nào khác ở Đông Nam Á. Và mỗi năm, các bạn chào đón thêm ngày càng nhiều du khách Mỹ, trong đó có những người Mỹ trẻ đeo ba lô, đến 36 phố phường của Hà Nội và những cửa hàng của Hội An, và kinh thành Huế. Là người Việt và người Mỹ, tất cả chúng ta đều có thể cảm nhận được những lời này của Văn Cao – “Từ nay người biết quê người. Từ nay người biết thương người.”
Trên cương vị Tổng Thống, tôi đã trông cậy vào sự tiến bộ này. Với Quan Hệ Đối Tác Toàn Diện mới của chúng ta, hai chính phủ của chúng ta đang làm việc chặt chẽ với nhau hơn bao giờ hết. Và cùng với chuyến thăm này, chúng ta đã đặt mối quan hệ của chúng ta lên nền tảng vững vàng hơn cho nhiều thập niên tới. Theo nghĩa này, câu chuyện dài giữa hai quốc gia chúng ta, bắt đầu với Thomas Jefferson cách đây hơn hai thế kỷ, giờ đây đã đi trọn một vòng tròn. Mất nhiều năm và đòi hỏi nỗ lực cực kì to lớn. Nhưng giờ đây chúng ta có thể nói một điều mà trước đây không thể nào tưởng tượng được: Hôm nay, Việt Nam và Hoa Kỳ là đối tác của nhau.
Và tôi tin rằng kinh nghiệm của chúng ta chứa đựng những bài học cho thế giới. Vào lúc, khi nhiều cuộc tranh chấp tưởng chừng không thể giải quyết được, tưởng chừng như sẽ không bao giờ kết thúc, chúng ta đã chỉ ra rằng con tim có thể làm thay đổi và có thể có một tương lai khác, khi chúng ta không chấp nhận làm tù nhân của quá khứ nữa. Chúng ta đã chỉ ra rằng hòa bình có thể tốt hơn chiến tranh đến mức nào. Chúng ta đã chỉ ra rằng tiến bộ và nhân phẩm được thúc đẩy mạnh mẽ nhất bằng hợp tác chứ không phải bằng xung đột. Đó là điều mà Việt Nam và Mỹ có thể trình bày trước thế giới.
Hiện nay, quan hệ đối tác mới của Mỹ với Việt Nam ăn sâu bén rễ trong một số sự thật căn bản. Việt Nam là một quốc gia độc lập, tự chủ, và không một quốc gia nào có thể áp đặt ý chí của mình lên các bạn hay quyết định vận mệnh của các bạn. Hiện nay, Hoa Kỳ quan tâm đến đất nước này. Chúng tôi quan tâm tới thành công của Việt Nam. Nhưng Quan Hệ Đối Tác Toàn Diện của chúng ta vẫn còn ở giai đoạn đầu. Và với thời gian còn lại của tôi, tôi muốn chia sẻ với các bạn viễn cảnh mà tôi tin sẽ dẫn dắt chúng ta trong những thập kỷ tới.
Thứ nhất, chúng ta hãy hợp tác để tạo cơ hội và thịnh vượng thực sự cho người dân hai nước. Chúng ta biết những yếu tố mang tới thành công về kinh tế trong thế kỷ thứ XXI. Trong nền kinh tế toàn cầu của chúng ta, đầu tư và thương mại đổ đến bất cứ nơi nào có chế độ pháp quyền, bởi vì không ai muốn bắt đầu công việc kinh doanh mà phải đưa hối lộ. Không ai muốn bán hàng hoặc tới trường nếu họ không biết mình sẽ được đối xử như thế nào. Trong những nền kinh tế dựa trên tri thức, việc làm sẽ tới những nơi mà người dân có quyền tự do suy nghĩ, tự do trao đổi ý kiến và sáng tạo. Và những quan hệ đối tác kinh tế thực sự không chỉ là quốc gia này khai thác tài nguyên của một quốc gia khác, mà là đầu tư vào nguồn lực lớn nhất của chúng ta, đó là người dân của chúng ta, các kỹ năng và tài năng của họ, dù các bạn sống ở một thành phố lớn hay nông thôn thì cũng thế. Và đấy là quan hệ đối tác mà Hoa Kỳ đề nghị.
Như tôi đã công bố hôm qua, Tổ Chức Hòa Bình lần đầu tiên sẽ tới Việt Nam, tập trung vào việc dạy tiếng Anh. Một thế hệ sau khi thanh niên Hoa Kỳ đến đây để chiến đấu, một thế hệ người Mỹ mới sẽ đến đây để dạy học và xây dụng và làm cho tình bạn giữa chúng ta ngày càng sâu sắc hơn. Một số công ty công nghệ và học viện hàng đầu của Hoa Kỳ sẽ hợp tác với các trường đại học của Việt Nam để tăng cường đào tạo trong các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán và y học. Bởi vì ngay cả khi chúng tôi tiếp tục đón nhận thêm nhiều sinh viên Việt Nam tới Hoa Kỳ, chúng tôi cũng tin rằng thanh niên xứng đáng được hưởng một nền giáo dục đẳng cấp thế giới ngay tại Việt Nam.
Đó là một trong những lý do chúng tôi rất vui mừng báo tin vào mùa thu này, trường Đại Học Fulbright Việt Nam sẽ mở cửa tại thành phố Hồ Chí Minh – trường đại học độc lập, phi lợi nhuận đầu tiên của quốc gia này – đấy là nơi tự do học thuật được thể hiện một cách trọn vẹn và học bổng cho những người có nhu cầu. Sinh viên, học giả, các nhà nghiên cứu sẽ tập trung vào chính sách công, quản trị và kinh doanh; vào kỹ thuật và khoa học điện toán; và văn học nghệ thuật – tất cả mọi thứ, từ thơ Nguyễn Du, cho đến triết lý của Phan Chu Trinh, cho đến toán học của Ngô Bảo Châu.
Và chúng tôi sẽ tiếp tục đồng hành với thanh niên và doanh nhân, vì chúng tôi tin rằng chỉ cần các bạn tích lũy được kỹ năng và công nghệ và số vốn cần thiết, thì không gì có thể cản trở được các bạn – và điều đó tất nhiên bao gồm cả những người phụ nữ Việt Nam tài năng nữa. Chúng tôi cho rằng bình đẳng giới là một nguyên tắc quan trọng. Từ thời Hai Bà Trưng đến nay, những người phụ nữ mạnh mẽ, tự tin đã luôn giúp đưa đất nước Việt Nam tiến lên. Bằng chứng thật rõ ràng – tôi nói điều này ở bất cứ nơi nào tôi đến trên khắp thế giới – gia đình, cộng đồng và đất nước thịnh vương hơn khi các bé gái và phụ nữ có cơ hội bình đẳng để thành công ở trường học và tại nơi làm việc và trong chính quyền. Điều đó đúng ở mọi nơi, và điều đó đúng ngay tại Việt Nam.
Với Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương, chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc nhằm mở rộng tất cả tiềm năng của nền kinh của các bạn. Ở Việt Nam, TPP sẽ tạo điều kiên cho các bạn bán thêm nhiều sản phẩm của mình ra thế giới và sẽ thu hút thêm nhiều khoản đầu tư mới. TPP sẽ đòi hỏi những cải cách nhằm bảo vệ công nhân và chế độ pháp quyền và sở hữu trí tuệ. Và Hoa Kỳ sẵn sàng hỗ trợ khi Việt Nam thực thi đầy đủ các cam kết của mình. Tôi muốn các bạn biết rằng, trên cương vị Tổng Thống Hoa Kỳ, tôi ủng hộ mạnh mẽ TPP bởi vì các bạn cũng sẽ có thể mua thêm hàng hóa của chúng tôi, “Made in America.”
Hơn nữa, tôi ủng hộ TPP vì những lợi ích chiến lược quan trọng của nó. Việt Nam sẽ bớt lệ thuộc vào bất cứ một đối tác thương mại nào và được hưởng những mối quan hệ rộng rãi hơn với nhiều đối tác hơn, trong đó có Hoa Kỳ. Và TPP sẽ củng cố sự hợp tác trong khu vực. Nó sẽ giúp giải quyết bất bình đẳng về kinh tế và sẽ thúc đẩy nhân quyền, với mức lương cao hơn và điều kiện làm việc an toàn hơn. Lần đầu tiên ngay tại Việt Nam, quyền thành lập nghiệp đoàn lao động độc lập và những điều khoản cấm lao động cưỡng bức và lao động trẻ em. Và nó có những điều khoản bảo vệ môi trường mạnh mẽ nhất và những tiêu chuẩn chống tham nhũng mạnh mẽ nhất trong tất cả các thỏa thuận thương mại trong lịch sử.
Đó là tương lai mà TPP hứa hẹn cho tất cả chúng ta, bởi vì tất cả chúng ta – Hoa Kỳ, Việt Nam, và những nước ký kết khác – sẽ phải tuân thủ những luật lệ mà chúng ta đã cùng nhau lập ra. Đó là tương lai cho tất cả chúng ta. Do đó, giờ đây chúng ta phải hoàn tất nó – vì sự thịnh vượng kinh tế của chúng ta và vì an ninh quốc gia của chúng ta.
Điều này đưa tôi đến lĩnh vực thứ hai mà chúng ta có thể hợp tác, và đó là bảo đảm an ninh chung của chúng ta. Với chuyến thăm này, chúng ta đã đồng ý nâng hợp tác về an ninh lên tầng cao mới và xây dựng thêm niềm tin giữa hai quân đội. Chúng tôi sẽ tiếp tục huấn luyện và cung cấp thiết bị cho lực lượng Tuần Duyên của các bạn để củng cố khả năng hàng hải của Việt Nam. Chúng tôi sẽ cộng tác để gửi viện trợ nhân đạo khi xảy ra thảm họa. Với tuyên bố mà tôi đưa ra ngày hôm qua về việc dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí quốc phòng, Việt Nam sẽ tiếp cận rộng rãi hơn với thiết bị quân sự mà các bạn cần để bảo đảm an ninh của mình. Và Hoa Kỳ đang thể hiện lời cam kết về việc bình thường hoá hoàn toàn quan hệ với Việt Nam.
Nói rộng ra, thế kỷ thứ XX đã dạy cho tất cả chúng ta – trong đó có Hoa Kỳ và Việt Nam – rằng trật tự quốc tế, nền tảng an ninh chung của chúng ta, có những luật lệ và tiêu chuẩn nhất định. Mọi quốc gia đều có chủ quyền, không phân biệt nước lớn hay nước nhỏ, chủ quyền của mỗi quốc gia phải được tôn trọng, và không ai được xâm phạm lãnh thổ của bất cứ quốc gia nào. Nước lớn không được bắt nạt nước nhỏ. Và mọi tranh chấp phải được giải quyết một cách hoà bình. Và các thiết chế khu vực, như ASEAN và Thượng Đỉnh Đông Á (East Asia Summit), phải tiếp tục được củng cố. Đấy là niềm tin của tôi. Đấy là niềm tin của Hoa Kỳ. Đó là quan hệ đối tác mà nước Mỹ đề nghị với khu vực này. Tôi mong sẽ thúc đẩy tinh thần tôn trọng và hoà giải này trong thời gian tới, trong năm nay, khi tôi trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ đầu tiên đến thăm Lào.
Ở Biển Đông, Hoa Kỳ không phải là người tham gia trong các cuộc tranh chấp hiện nay. Nhưng chúng tôi sẽ sát cánh cùng các đối tác trong việc đề cao những nguyên tắc cốt lõi, như tự do hàng hải và hàng không, và thương mại hợp pháp không bị ngăn trở, và giải quyết tranh chấp một cách hoà bình, thông qua các phương tiện pháp lý, phù hợp với luật pháp quốc tế. Trong khi tiến về phía trước, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục bay, đi lại bằng tầu thủy và hoạt động ở tất cả những nơi mà luật pháp quốc tế cho phép, và chúng tôi sẽ ủng hộ quyền của tất cả các nước trong khi họ làm như thế.
Ngay cả khi chúng ta hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong những lĩnh vực mà tôi vừa nói, quan hệ đối tác của chúng ta bao gồm yếu tố thứ ba – giải quyết các lĩnh vực mà chính phủ của chúng ta không đồng ý, trong đó có nhân quyền. Tôi nói điều này không phải để nhắm vào một mình Việt Nam. Không quốc gia nào hoàn hảo. Sau hai thế kỷ, Hoa Kỳ vẫn phải nỗ lực để sống theo những lý tưởng có từ thời lập quốc. Chúng tôi vẫn phải giải quyết những khiếm khuyết của mình – quá nhiều tiền trong nền chính trị, và bất bình đẳng kinh tế gia tăng, thiên vị chủng tộc trong hệ thống tư pháp hình sự, cùng làm một việc, phụ nữ vẫn không được trả lương như nam giới. Chúng tôi vẫn có những vấn đề. Và tôi cam đoan với các bạn là chúng tôi cũng bị chỉ trích. Tôi nghe chỉ trích mỗi ngày. Nhưng sự xét nét đó, cuộc tranh luận công khai đó, đối mặt với sự không hoàn hảo của chính mình, và cho phép mọi người có quyền nêu ý kiến đã giúp chúng tôi phát triển mạnh mẽ hơn và thịnh vượng hơn và công bằng hơn.
Trước đây tôi đã từng nói – Hoa Kỳ không tìm cách áp đặt hình thức chính quyền của mình cho Việt Nam. Tôi tin rằng những quyền mà tôi nói đến không phải là những giá trị của Mỹ; tôi nghĩ đấy là giá trị phổ quát, được ghi trong Tuyên Ngôn Phổ Quát Về Nhân Quyền. Chúng cũng được ghi trong hiến pháp Việt Nam, trong đó rằng “mọi công dân có quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, và có quyền tiếp cận thông tin, quyền hội họp, quyền lập hội và quyền biểu tình.” Đó là trong hiếp pháp Việt Nam. Do đó, thật vậy, đây là vấn đề về tất cả chúng ta, mỗi quốc gia, cố gắng áp dụng nhất quán những nguyên tắc này, để bảo đảm rằng chúng ta – những người trong chính phủ – đang trung thành với những lý tưởng này.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được một số tiến bộ. Việt Nam đã cam kết làm cho luật lệ phù hợp với hiến pháp mới và với các tiêu chuẩn quốc tế. Theo một số đạo luật được thông qua gần đây, chính phủ sẽ tiết lộ về nhiều hơn về ngân sách và công chúng sẽ có quyền tiếp cận với nhiều thông tin hơn. Và, như tôi đã nói, Việt Nam đã cam kết cải cách kinh tế và lao động theo TPP. Vì vậy, tất cả đều là những bước đi tích cực. Và rốt cuộc, tương lai của Việt Nam sẽ do người dân Việt Nam quyết định. Mỗi nước sẽ vạch ra con đường của riêng mình, và hai nước chúng ta có truyền thống khác nhau, có hệ thống chính trị khác nhau và nền văn hóa khác nhau. Nhưng trong tư cách một người bạn của Việt Nam, cho phép tôi chia sẻ quan điểm của tôi – tại sao tôi tin rằng các quốc gia sẽ thành công hơn khi các quyền phổ quát được tôn trọng.
Khi có tự do diễn đạt và tự do ngôn luận, và khi mọi người có thể chia sẻ ý tưởng và truy cập Internet và truyền thông xã hội không hạn chế, điều đó cung cấp nhiên liệu cho quá trình đổi mới mà các nền kinh tế cần để phát triển. Đó là nơi những ý tưởng mới phát sinh. Đó là cách một Facebook bắt đầu. Đó là cách mà một số công ty tuyệt vời nhất của chúng tôi bắt đầu – vì một người nào đó đã có một ý tưởng mới. Ý tưởng khác hẳn. Và họ có thể chia sẻ. Khi có tự do báo chí – khi các nhà báo và blogger có thể soi rọi ánh sáng vào bất công hay lạm quyền – điều đó khiến các viên chức có trách nhiệm giải trình và xây dựng niềm tin nơi công chúng rằng hệ thống đang hoạt động. Khi các ứng cử viên có thể tranh cử và tự do vận động, và các cử tri có thể chọn người lãnh đạo của mình trong những cuộc bầu cử tự do và công bằng, điều đó làm cho đất nước ổn định hơn, bởi vì người dân biết rằng tiếng nói của họ được tính đến và sự thay đổi ôn hòa là khả dĩ. Và nó đưa những người mới vào hệ thống.
Khi có tự do tôn giáo, điều này không chỉ cho phép mọi người thể hiện đầy đủ tình yêu thương và lòng từ bi vốn là trọng tâm của tất cả các tôn giáo lớn, mà còn cho phép các nhóm tôn giáo phục vụ cộng đồng của mình thông qua các trường học và bệnh viện, và chăm sóc người nghèo và người dễ bị tổn thương. Và khi có tự do hội họp – khi người dân được tự do thành lập tổ chức trong xã hội dân sự – thì đất nước có thể giải quyết tốt hơn những thách thức mà chính quyền đôi khi không thể tự giải quyết được. Vì vậy, quan điểm của tôi là việc duy trì các quyền này không phải là một mối đe dọa đối với ổn định, mà trên thực tế, là củng cố ổn định và là nền tảng của tiến bộ.
Nói cho cùng, chính vì khát vọng có được những quyền này mà mọi người trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam, có được nguồn cảm hứng để lật đổ chủ nghĩa thực dân. Và tôi tin rằng việc duy trì những quyền này là biểu hiện đầy đủ nhất của nền độc lập mà rất nhiều quốc gia trân trọng, kể cả tại đây, một quốc gia tự tuyên bố là “của Dân, do Dân và vì Dân.”
Việt Nam sẽ làm khác Hoa Kỳ. Và mỗi nước chúng ta sẽ làm khác với nhiều nước khác trên thế giới này. Nhưng, có những nguyên tắc căn bản mà tôi nghĩ tất cả chúng ta đều cố gắng hoàn thiện và cải tiến. Và tôi nói điều này như một người sắp rời nhiệm sở, cho nên giờ đây tôi có gần tám năm để suy ngẫm về cách thức hoạt động và tương tác của hệ thống của chúng tôi với các nước khác trên khắp thế giới, trong khi họ cũng liên tục cố gắng để cải tiến hệ thống của mình.
Cuối cùng, tôi nghĩ rằng quan hệ đối tác của chúng ta có thể đáp ứng được những thách thức toàn cầu mà không một nước nào có thể tự giải quyết được. Nếu chúng ta muốn bảo đảm được sức khỏe của người dân chúng ta và vẻ đẹp của hành tinh này, thì phát triển phải là bền vững. Những kỳ quan thiên nhiên như Vịnh Hạ Long hay Hang Sơn Đoòng phải được bảo tồn cho con cháu chúng ta. Nước biển dâng lên đe dọa bờ biển và sông ngòi mà rất nhiều người Việt Nam dựa vào. Và vì vậy, như là đối tác trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, chúng ta cần thực hiện những cam kết mà chúng ta đã đưa ra ở Paris, chúng ta cần giúp nông dân và làng xóm và những người sống bằng ngư nghiệp, để họ có thể thích nghi và đưa thêm năng lượng sạch đến những nơi như đồng bằng sông Mekong – một vựa lúa của thế giới mà chúng cần để nuôi dưỡng những thế hệ tương lai.
Và chúng ta có thể cứu được biết bao sinh mạng bên ngoài biên giới của mình. Bằng cách giúp những nước khác củng cố hệ thống y tế của họ, ví dụ như thế, chúng ta có thể ngăn chặn những vụ bùng phát bệnh tật, để chúng không trở thành nạn dịch đe dọa tất cả chúng ta. Và trong khi Việt Nam cam kết thêm nữa với Liên Hiệp Quốc về việc gìn giữ hòa bình, Hoa Kỳ tự hào vì giúp huấn luyện lực lượng gìn giữ hòa bình của các bạn. Và đó thật là một điều đáng ghi nhận – hai nước chúng ta từng đánh nhau nhưng giờ đây sát cánh bên nhau để giúp đỡ những nước khác cùng đạt được hòa bình. Như thế, ngoài quan hệ song phương, mối quan hệ đối tác của chúng ta cũng tạo điều kiện cho chúng ta giúp định hình môi trường quốc tế bằng những biện pháp tích cực.
Tuy vậy, việc hiện thực hóa hoàn toàn viễn cảnh tôi vừa mô tả hôm nay sẽ không xảy ra ngay lập tức, và nó cũng không phải là tất yếu. Sẽ có những vấp váp và những bước lùi trên đường đi. Sẽ có những lúc hiểu lầm. Cần phải có những nỗ lực bền bỉ và đối thoại chân thành để hai bên đều tiếp tục thay đổi. Nhưng khi xét lại toàn bộ lịch sử và những trở ngại mà chúng ta đã vượt qua, hôm nay, đứng trước các bạn tôi rất lạc quan về tương lai chung của chúng ta. Và, bao giờ cũng thế, niềm tin của tôi ăn sâu bén rễ vào tình bạn và những khát vọng chung của hai dân tộc chúng ta.
Tôi nghĩ đến tất cả những người Mỹ và Việt đã từng vượt qua một đại dương mênh mông – một số người đang đoàn tụ với gia đình lần đầu tiên sau nhiều thập niên – và những người, như Trịnh Công Sơn đã nói trong ca khúc của mình, nối vòng tay lớn, và đang mở rộng lòng mình và nhìn thấy tình người của chúng ta trong nhau.
Tôi nghĩ đến tất cả những người Mỹ gốc Việt đã thành công trong mọi lãnh vực – bác sĩ, nhà báo, quan tòa, quan chức. Một người trong số họ, được sinh ra ở đây, đã viết cho tôi một lá thư nói rằng, nhờ “Ơn Thượng Đế, tôi đã sống được Giấc Mơ Mỹ… Tôi rất tự hào là một người Mỹ nhưng cũng rất tự hào là một người Việt.” Và hôm nay, ông ấy đang ở đây, trở về quê hương nơi sinh của ông, bởi vì, theo ông nói, hoài bão của ông là “cải thiện đời sống của mỗi người Việt Nam”.
Tôi nghĩ đến một thế hệ người Việt mới – rất nhiều người trong các bạn, rất nhiều người trong những người trẻ đang ở đây – những người sẵn sàng tạo dấu ấn của mình trên thế gian này. Và tôi muốn nói với tất cả những thanh niên đang lắng nghe: Tài năng của các bạn, nghị lực của các bạn, những giấc mơ của các bạn – chính là trong những thứ đó, Việt Nam có tất cả những điều mà đất nước này cần để trở thành phồn vinh. Các bạn nắm trong tay vận mệnh của mình. Đây là thời khắc của các bạn. Và trong khi các bạn theo đuổi tương lai mà các bạn mong muốn, tôi muốn các bạn biết rằng Hoa Kỳ sẽ ở ngay bên cạnh các bạn như một đối tác và một người bạn.
Và sau đây nhiều năm, khi có thêm nhiều người Việt và Mỹ hơn nữa cùng nhau học hỏi; cùng nhau sáng tạo và kinh doanh; cùng nhau bảo vệ an ninh của chúng ta; và cùng nhau thúc đẩy nhân quyền và bảo vệ hành tinh của chúng ta – tôi hy vọng các bạn sẽ nhớ lại thời điểm này và tìm thấy hy vọng từ viễn cảnh mà tôi gửi gắm hôm nay. Hay là, liệu tôi có thể nói một cách khác – bằng những lời mà các bạn đã biết rõ từ Truyện Kiều – “Rằng trăm năm cũng từ đây. Của tin gọi một chút này làm ghi.”
Cám ơn các bạn. Cám ơn các bạn rất nhiều. Cám ơn, Việt Nam. Cám ơn.
Tôi không phải là tổng thống Mỹ đầu tiên đến Việt Nam trong thời gian gần đây. Nhưng tôi là tổng thống đầu tiên, như rất nhiều người trong các bạn, đã trưởng thành sau cuộc chiến giữa hai nước của chúng ta. Khi những người lính Hoa Kỳ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, tôi mới 13 tuổi. Vì vậy, lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với Việt Nam và người Việt, là khi tôi đang ở tuổi trưởng thành ở Hawaii, cùng với cộng đồng người Mỹ gốc Việt đầy tự hào ở đó.
Cũng trong thời gian đó, nhiều người ở đất nước này trẻ hơn tôi rất nhiều. Giống như hai cô con gái tôi, nhiều người trong các bạn đã sống cả đời mình chỉ biết có một điều – đó là hòa bình và các quan hệ đã được bình thường hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Do đó, tôi đến đây với ý thức về quá khứ, với ý thức về lịch sử khó khăn của chúng ta, nhưng hướng tới tương lai – sự thịnh vượng, an ninh và nhân phẩm mà chúng ta có thể cùng nhau thúc đẩy.
Tôi cũng đến đây với lòng tôn trọng sâu sắc đối với những di sản cổ xưa của Việt Nam. Trong suốt hàng ngàn năm, những người nông dân đã trồng cấy trên những mảnh đất này –những chiếc trống Đông Sơn đã cho chúng ta biết lịch sử như thế. Tại khúc quanh này của dòng sông, Hà Nội đã đứng vững trong hơn một ngàn năm. Thế giới yêu chuộng lụa và tranh Việt Nam, và Văn Miếu đồ sộ là nhân chứng cho tinh thần hiếu học của các bạn. Mặc dù vậy, trong suốt hàng trăm năm, vận mệnh của các bạn thường bị những nước khác quyết định. Đất nước yêu quý của các bạn không phải lúc nào cũng thuộc về các bạn. Nhưng như cây tre, tinh thần quật cường của dân tộc Việt đã được Lý Thường Kiệt thể hiện: “Sông núi nước Nam vua Nam ở. Rành rành đã định tại Sách Trời.”
Hôm nay, chúng ta cũng ôn lại giai đoạn lịch sử kéo dài hơn giữa người Việt và người Mỹ, nhưng lại thường xuyên bị bỏ qua. Hơn 200 năm trước, khi Tổ Phụ Lập Quốc của chúng tôi, Thomas Jefferson, tìm giống lúa cho trang trại của mình, ông đã tìm gạo Việt Nam, mà ông nói là “nổi tiếng vì nhìn thì trắng nhất, ăn thì thơm ngon nhất, và có năng suất cao nhất.” Chẳng bao lâu sau, những thương thuyền Mỹ đã đến các hải cảng của các bạn để mua và bán.
Trong Thế chiến II, người Mỹ đã đến đây để hỗ trợ cuộc kháng chiến của các bạn nhằm chống lại ách chiếm đóng. Khi những phi công Mỹ bị bắn rơi, người dân Việt Nam đã giúp giải cứu họ. Và trong ngày Việt Nam tuyên bố độc lập, nhiều người ở thành phố này đã đổ ra đường, và Hồ Chí Minh đã nhắc tới Tuyên Ngôn Độc Lập Mỹ. Ông nói, “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền bất khả tương nhượng; trong đó, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Trong một thời đại khác, việc tuyên xưng những lý tưởng mà chúng ta cùng nhau chia sẻ đó và câu chuyện chung về việc lật đổ chủ nghĩa thực dân có lẽ đã đưa chúng ta xích lại gần nhau sớm hơn nữa. Nhưng không những thế, những cuộc đối đầu trong Chiến tranh Lạnh và sự sợ hãi chủ nghĩa cộng sản đã lôi chúng ta vào cuộc xung đột. Tương tự như những cuộc xung đột khác trong suốt lịch sử loài người, một lần nữa, chúng ta biết rõ hơn một sự thật cay đắng – rằng chiến tranh, không phụ thuộc vào ý định của chúng ta, chỉ mang đến đau khổ và bi kịch.
Tại đài tưởng niệm chiến tranh cách đây không xa, và với mỗi bàn thờ trong từng gia đình trên khắp đất nước này, các bạn đang tưởng nhớ khoảng 3 triệu người Việt, binh sỹ và thường dân, ở cả hai bên, đã thiệt mạng. Tại bức tường tưởng niệm của chúng tôi ở Washington, chúng tôi có thể chạm vào tên của 58.315 người Mỹ đã bỏ mình trong cuộc xung đột đó. Ở cả hai đất nước của chúng ta, các cựu chiến binh và gia đình những người đã ngã xuống vẫn còn đau đớn vì bạn bè và người thân đã mất. Cũng như chúng tôi ở nước Mỹ đã nhận thức được rằng, ngay cả khi chúng tôi bất đồng về cuộc chiến, chúng tôi vẫn luôn phải vinh danh những người đã chiến đấu và chào đón họ trở về với sự trân trọng mà họ xứng đáng được hưởng, ngày hôm nay, chúng ta, người Việt và người Mỹ, có thể đến với nhau và thừa nhận nỗi đau và những hy sinh của cả hai bên.
Gần đây hơn, trong hai thập kỷ qua, Việt Nam đạt được tiến bộ lớn lao, và hôm nay thế giới có thể thấy những bước tiến dài mà các bạn đã làm được. Với những cải cách kinh tế và thỏa thuận về mậu dịch, trong đó có những thỏa thuận với Hoa Kỳ, các bạn đã bước vào nền kinh tế toàn cầu, các bạn đang bán sản phẩm của mình ra khắp thế giới. Nhiều khoản đầu tư nước ngoài nữa đang đổ vào. Và với một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Châu Á, Việt Nam đã tiến lên để trở thành quốc gia có thu nhập trung bình.
Chúng ta thấy tiến bộ của Việt Nam trong những tòa tháp và cao ốc của Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, trong những thương xá mới và những trung tâm đô thị. Chúng ta thấy điều đó trong những vệ tinh mà Việt Nam đưa vào không gian và một thế hệ mới lên mạng, mở ra những doanh nghiệp mới và điều hành những thương vụ mới. Chúng ta thấy điều đó trong hàng chục triệu người Việt kết nối với nhau trên Facebook và Instagram. Và các bạn không chỉ đăng ảnh tự chụp – mặc dù tôi nghe nói các bạn chụp rất nhiều – và đến nay, đã có một số người xin tự chụp ảnh cùng với tôi. Các bạn cũng đang lên tiếng vì những mục đích mà các bạn quan tâm, như cứu cây cổ thụ ở Hà Nội.
Như thế, toàn bộ sự năng động này tạo ra tiến bộ thật sự trong cuộc sống của người dân. Ở nước Việt Nam này, các bạn đã giảm đáng kể tình trạng nghèo khổ cùng cực, các bạn đã gia tăng thu nhập trong từng hộ gia đình và đưa nhiều triệu người vào tầng lớp trung lưu đang phát triển rất nhanh về. Đói nghèo, bệnh tật, tỉ lệ tử vong ở trẻ em và phụ nữ, tất cả đều giảm. Số người có nước uống sạch và điện, số trẻ em trai và gái đến trường, và tỉ lệ biết đọc biết viết của các bạn – đều tăng. Đây là tiến bộ phi thường. Đây là điều mà các bạn đã đạt được trong một khoảng thời gian rất ngắn.
Và khi Việt Nam chuyển hóa, mối quan hệ giữa hai quốc gia chúng ta cũng chuyển hóa. Chúng ta đã học một bài học của thiền sư Thích Nhất Hạnh, khi ông nói: “Trong cuộc đối thoại chân thành, cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi”. Bằng cách này, chính cuộc chiến đã ngăn cách chúng ta lại trở thành suối nguồn chữa lành vết thương. Nó tạo điều kiện cho chúng tôi tìm kiếm những người mất tích và cuối cùng là đưa họ về nhà. Nó tạo điều kiện cho chúng tôi giúp tháo gỡ mìn và bom chưa nổ, bởi vì không thể để cho bất cứ đứa trẻ nào bị mất chân chỉ vì chơi ở bên ngoài. Ngay trong khi chúng tôi tiếp tục hỗ trợ những người Việt khuyết tật, trong đó có trẻ em, chúng tôi cũng tiếp tục giúp dọn sạch Chất Da Cam – dioxin – để cho Việt Nam có thể lấy lại thêm đất. Chúng tôi tự hào về công việc chúng ta cùng làm ở Đà Nẵng, và chúng tôi hy vọng sẽ giúp các nỗ lực của các bạn ở Biên Hòa.
Chúng ta hãy đừng quên rằng sự hòa giải giữa hai đất nước chúng ta đã được dẫn dắt bởi các cựu chiến binh của chúng ta, những người đã từng chạm trán với nhau trên chiến trường. Hãy nghĩ đến Nghị Sĩ John McCain, người từng bị giam nhiều năm tại đây như là một tù binh chiến tranh, ông đã gặp Tướng Giáp, người nói rằng hai nước chúng ta không nên là kẻ thù mà là bạn bè. Hãy nghĩ đến tất cả các cựu chiến binh, Việt và Mỹ, đã từng giúp chúng ta chữa lành vết thương và xây dựng những mối quan hệ mới. Ít người đã làm được nhiều về mặt này trong những năm qua hơn cựu trung úy Hải quân, và giờ đây là Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, John Kerry, người cũng đang có mặt ở đây. Và thay mặt cho tất cả chúng ta, John, chúng tôi cám ơn ông vì những nỗ lực phi thường của ông.
Vì các cựu chiến binh của chúng ta đã chỉ đường cho chúng ta, vì các chiến sĩ đã có can đảm theo đuổi hòa bình, hai dân tộc chúng ta giờ đây gần nhau hơn bao giờ hết. Thương mại của chúng ta đã tăng vọt. Các sinh viên và học giả của chúng ta cùng nhau học hỏi. Chúng tôi nhận nhiều sinh viên Việt Nam hơn bất cứ nước nào khác ở Đông Nam Á. Và mỗi năm, các bạn chào đón thêm ngày càng nhiều du khách Mỹ, trong đó có những người Mỹ trẻ đeo ba lô, đến 36 phố phường của Hà Nội và những cửa hàng của Hội An, và kinh thành Huế. Là người Việt và người Mỹ, tất cả chúng ta đều có thể cảm nhận được những lời này của Văn Cao – “Từ nay người biết quê người. Từ nay người biết thương người.”
Trên cương vị Tổng Thống, tôi đã trông cậy vào sự tiến bộ này. Với Quan Hệ Đối Tác Toàn Diện mới của chúng ta, hai chính phủ của chúng ta đang làm việc chặt chẽ với nhau hơn bao giờ hết. Và cùng với chuyến thăm này, chúng ta đã đặt mối quan hệ của chúng ta lên nền tảng vững vàng hơn cho nhiều thập niên tới. Theo nghĩa này, câu chuyện dài giữa hai quốc gia chúng ta, bắt đầu với Thomas Jefferson cách đây hơn hai thế kỷ, giờ đây đã đi trọn một vòng tròn. Mất nhiều năm và đòi hỏi nỗ lực cực kì to lớn. Nhưng giờ đây chúng ta có thể nói một điều mà trước đây không thể nào tưởng tượng được: Hôm nay, Việt Nam và Hoa Kỳ là đối tác của nhau.
Và tôi tin rằng kinh nghiệm của chúng ta chứa đựng những bài học cho thế giới. Vào lúc, khi nhiều cuộc tranh chấp tưởng chừng không thể giải quyết được, tưởng chừng như sẽ không bao giờ kết thúc, chúng ta đã chỉ ra rằng con tim có thể làm thay đổi và có thể có một tương lai khác, khi chúng ta không chấp nhận làm tù nhân của quá khứ nữa. Chúng ta đã chỉ ra rằng hòa bình có thể tốt hơn chiến tranh đến mức nào. Chúng ta đã chỉ ra rằng tiến bộ và nhân phẩm được thúc đẩy mạnh mẽ nhất bằng hợp tác chứ không phải bằng xung đột. Đó là điều mà Việt Nam và Mỹ có thể trình bày trước thế giới.
Hiện nay, quan hệ đối tác mới của Mỹ với Việt Nam ăn sâu bén rễ trong một số sự thật căn bản. Việt Nam là một quốc gia độc lập, tự chủ, và không một quốc gia nào có thể áp đặt ý chí của mình lên các bạn hay quyết định vận mệnh của các bạn. Hiện nay, Hoa Kỳ quan tâm đến đất nước này. Chúng tôi quan tâm tới thành công của Việt Nam. Nhưng Quan Hệ Đối Tác Toàn Diện của chúng ta vẫn còn ở giai đoạn đầu. Và với thời gian còn lại của tôi, tôi muốn chia sẻ với các bạn viễn cảnh mà tôi tin sẽ dẫn dắt chúng ta trong những thập kỷ tới.
Thứ nhất, chúng ta hãy hợp tác để tạo cơ hội và thịnh vượng thực sự cho người dân hai nước. Chúng ta biết những yếu tố mang tới thành công về kinh tế trong thế kỷ thứ XXI. Trong nền kinh tế toàn cầu của chúng ta, đầu tư và thương mại đổ đến bất cứ nơi nào có chế độ pháp quyền, bởi vì không ai muốn bắt đầu công việc kinh doanh mà phải đưa hối lộ. Không ai muốn bán hàng hoặc tới trường nếu họ không biết mình sẽ được đối xử như thế nào. Trong những nền kinh tế dựa trên tri thức, việc làm sẽ tới những nơi mà người dân có quyền tự do suy nghĩ, tự do trao đổi ý kiến và sáng tạo. Và những quan hệ đối tác kinh tế thực sự không chỉ là quốc gia này khai thác tài nguyên của một quốc gia khác, mà là đầu tư vào nguồn lực lớn nhất của chúng ta, đó là người dân của chúng ta, các kỹ năng và tài năng của họ, dù các bạn sống ở một thành phố lớn hay nông thôn thì cũng thế. Và đấy là quan hệ đối tác mà Hoa Kỳ đề nghị.
Như tôi đã công bố hôm qua, Tổ Chức Hòa Bình lần đầu tiên sẽ tới Việt Nam, tập trung vào việc dạy tiếng Anh. Một thế hệ sau khi thanh niên Hoa Kỳ đến đây để chiến đấu, một thế hệ người Mỹ mới sẽ đến đây để dạy học và xây dụng và làm cho tình bạn giữa chúng ta ngày càng sâu sắc hơn. Một số công ty công nghệ và học viện hàng đầu của Hoa Kỳ sẽ hợp tác với các trường đại học của Việt Nam để tăng cường đào tạo trong các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán và y học. Bởi vì ngay cả khi chúng tôi tiếp tục đón nhận thêm nhiều sinh viên Việt Nam tới Hoa Kỳ, chúng tôi cũng tin rằng thanh niên xứng đáng được hưởng một nền giáo dục đẳng cấp thế giới ngay tại Việt Nam.
Đó là một trong những lý do chúng tôi rất vui mừng báo tin vào mùa thu này, trường Đại Học Fulbright Việt Nam sẽ mở cửa tại thành phố Hồ Chí Minh – trường đại học độc lập, phi lợi nhuận đầu tiên của quốc gia này – đấy là nơi tự do học thuật được thể hiện một cách trọn vẹn và học bổng cho những người có nhu cầu. Sinh viên, học giả, các nhà nghiên cứu sẽ tập trung vào chính sách công, quản trị và kinh doanh; vào kỹ thuật và khoa học điện toán; và văn học nghệ thuật – tất cả mọi thứ, từ thơ Nguyễn Du, cho đến triết lý của Phan Chu Trinh, cho đến toán học của Ngô Bảo Châu.
Và chúng tôi sẽ tiếp tục đồng hành với thanh niên và doanh nhân, vì chúng tôi tin rằng chỉ cần các bạn tích lũy được kỹ năng và công nghệ và số vốn cần thiết, thì không gì có thể cản trở được các bạn – và điều đó tất nhiên bao gồm cả những người phụ nữ Việt Nam tài năng nữa. Chúng tôi cho rằng bình đẳng giới là một nguyên tắc quan trọng. Từ thời Hai Bà Trưng đến nay, những người phụ nữ mạnh mẽ, tự tin đã luôn giúp đưa đất nước Việt Nam tiến lên. Bằng chứng thật rõ ràng – tôi nói điều này ở bất cứ nơi nào tôi đến trên khắp thế giới – gia đình, cộng đồng và đất nước thịnh vương hơn khi các bé gái và phụ nữ có cơ hội bình đẳng để thành công ở trường học và tại nơi làm việc và trong chính quyền. Điều đó đúng ở mọi nơi, và điều đó đúng ngay tại Việt Nam.
Với Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương, chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc nhằm mở rộng tất cả tiềm năng của nền kinh của các bạn. Ở Việt Nam, TPP sẽ tạo điều kiên cho các bạn bán thêm nhiều sản phẩm của mình ra thế giới và sẽ thu hút thêm nhiều khoản đầu tư mới. TPP sẽ đòi hỏi những cải cách nhằm bảo vệ công nhân và chế độ pháp quyền và sở hữu trí tuệ. Và Hoa Kỳ sẵn sàng hỗ trợ khi Việt Nam thực thi đầy đủ các cam kết của mình. Tôi muốn các bạn biết rằng, trên cương vị Tổng Thống Hoa Kỳ, tôi ủng hộ mạnh mẽ TPP bởi vì các bạn cũng sẽ có thể mua thêm hàng hóa của chúng tôi, “Made in America.”
Hơn nữa, tôi ủng hộ TPP vì những lợi ích chiến lược quan trọng của nó. Việt Nam sẽ bớt lệ thuộc vào bất cứ một đối tác thương mại nào và được hưởng những mối quan hệ rộng rãi hơn với nhiều đối tác hơn, trong đó có Hoa Kỳ. Và TPP sẽ củng cố sự hợp tác trong khu vực. Nó sẽ giúp giải quyết bất bình đẳng về kinh tế và sẽ thúc đẩy nhân quyền, với mức lương cao hơn và điều kiện làm việc an toàn hơn. Lần đầu tiên ngay tại Việt Nam, quyền thành lập nghiệp đoàn lao động độc lập và những điều khoản cấm lao động cưỡng bức và lao động trẻ em. Và nó có những điều khoản bảo vệ môi trường mạnh mẽ nhất và những tiêu chuẩn chống tham nhũng mạnh mẽ nhất trong tất cả các thỏa thuận thương mại trong lịch sử.
Đó là tương lai mà TPP hứa hẹn cho tất cả chúng ta, bởi vì tất cả chúng ta – Hoa Kỳ, Việt Nam, và những nước ký kết khác – sẽ phải tuân thủ những luật lệ mà chúng ta đã cùng nhau lập ra. Đó là tương lai cho tất cả chúng ta. Do đó, giờ đây chúng ta phải hoàn tất nó – vì sự thịnh vượng kinh tế của chúng ta và vì an ninh quốc gia của chúng ta.
Điều này đưa tôi đến lĩnh vực thứ hai mà chúng ta có thể hợp tác, và đó là bảo đảm an ninh chung của chúng ta. Với chuyến thăm này, chúng ta đã đồng ý nâng hợp tác về an ninh lên tầng cao mới và xây dựng thêm niềm tin giữa hai quân đội. Chúng tôi sẽ tiếp tục huấn luyện và cung cấp thiết bị cho lực lượng Tuần Duyên của các bạn để củng cố khả năng hàng hải của Việt Nam. Chúng tôi sẽ cộng tác để gửi viện trợ nhân đạo khi xảy ra thảm họa. Với tuyên bố mà tôi đưa ra ngày hôm qua về việc dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí quốc phòng, Việt Nam sẽ tiếp cận rộng rãi hơn với thiết bị quân sự mà các bạn cần để bảo đảm an ninh của mình. Và Hoa Kỳ đang thể hiện lời cam kết về việc bình thường hoá hoàn toàn quan hệ với Việt Nam.
Nói rộng ra, thế kỷ thứ XX đã dạy cho tất cả chúng ta – trong đó có Hoa Kỳ và Việt Nam – rằng trật tự quốc tế, nền tảng an ninh chung của chúng ta, có những luật lệ và tiêu chuẩn nhất định. Mọi quốc gia đều có chủ quyền, không phân biệt nước lớn hay nước nhỏ, chủ quyền của mỗi quốc gia phải được tôn trọng, và không ai được xâm phạm lãnh thổ của bất cứ quốc gia nào. Nước lớn không được bắt nạt nước nhỏ. Và mọi tranh chấp phải được giải quyết một cách hoà bình. Và các thiết chế khu vực, như ASEAN và Thượng Đỉnh Đông Á (East Asia Summit), phải tiếp tục được củng cố. Đấy là niềm tin của tôi. Đấy là niềm tin của Hoa Kỳ. Đó là quan hệ đối tác mà nước Mỹ đề nghị với khu vực này. Tôi mong sẽ thúc đẩy tinh thần tôn trọng và hoà giải này trong thời gian tới, trong năm nay, khi tôi trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ đầu tiên đến thăm Lào.
Ở Biển Đông, Hoa Kỳ không phải là người tham gia trong các cuộc tranh chấp hiện nay. Nhưng chúng tôi sẽ sát cánh cùng các đối tác trong việc đề cao những nguyên tắc cốt lõi, như tự do hàng hải và hàng không, và thương mại hợp pháp không bị ngăn trở, và giải quyết tranh chấp một cách hoà bình, thông qua các phương tiện pháp lý, phù hợp với luật pháp quốc tế. Trong khi tiến về phía trước, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục bay, đi lại bằng tầu thủy và hoạt động ở tất cả những nơi mà luật pháp quốc tế cho phép, và chúng tôi sẽ ủng hộ quyền của tất cả các nước trong khi họ làm như thế.
Ngay cả khi chúng ta hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong những lĩnh vực mà tôi vừa nói, quan hệ đối tác của chúng ta bao gồm yếu tố thứ ba – giải quyết các lĩnh vực mà chính phủ của chúng ta không đồng ý, trong đó có nhân quyền. Tôi nói điều này không phải để nhắm vào một mình Việt Nam. Không quốc gia nào hoàn hảo. Sau hai thế kỷ, Hoa Kỳ vẫn phải nỗ lực để sống theo những lý tưởng có từ thời lập quốc. Chúng tôi vẫn phải giải quyết những khiếm khuyết của mình – quá nhiều tiền trong nền chính trị, và bất bình đẳng kinh tế gia tăng, thiên vị chủng tộc trong hệ thống tư pháp hình sự, cùng làm một việc, phụ nữ vẫn không được trả lương như nam giới. Chúng tôi vẫn có những vấn đề. Và tôi cam đoan với các bạn là chúng tôi cũng bị chỉ trích. Tôi nghe chỉ trích mỗi ngày. Nhưng sự xét nét đó, cuộc tranh luận công khai đó, đối mặt với sự không hoàn hảo của chính mình, và cho phép mọi người có quyền nêu ý kiến đã giúp chúng tôi phát triển mạnh mẽ hơn và thịnh vượng hơn và công bằng hơn.
Trước đây tôi đã từng nói – Hoa Kỳ không tìm cách áp đặt hình thức chính quyền của mình cho Việt Nam. Tôi tin rằng những quyền mà tôi nói đến không phải là những giá trị của Mỹ; tôi nghĩ đấy là giá trị phổ quát, được ghi trong Tuyên Ngôn Phổ Quát Về Nhân Quyền. Chúng cũng được ghi trong hiến pháp Việt Nam, trong đó rằng “mọi công dân có quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, và có quyền tiếp cận thông tin, quyền hội họp, quyền lập hội và quyền biểu tình.” Đó là trong hiếp pháp Việt Nam. Do đó, thật vậy, đây là vấn đề về tất cả chúng ta, mỗi quốc gia, cố gắng áp dụng nhất quán những nguyên tắc này, để bảo đảm rằng chúng ta – những người trong chính phủ – đang trung thành với những lý tưởng này.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được một số tiến bộ. Việt Nam đã cam kết làm cho luật lệ phù hợp với hiến pháp mới và với các tiêu chuẩn quốc tế. Theo một số đạo luật được thông qua gần đây, chính phủ sẽ tiết lộ về nhiều hơn về ngân sách và công chúng sẽ có quyền tiếp cận với nhiều thông tin hơn. Và, như tôi đã nói, Việt Nam đã cam kết cải cách kinh tế và lao động theo TPP. Vì vậy, tất cả đều là những bước đi tích cực. Và rốt cuộc, tương lai của Việt Nam sẽ do người dân Việt Nam quyết định. Mỗi nước sẽ vạch ra con đường của riêng mình, và hai nước chúng ta có truyền thống khác nhau, có hệ thống chính trị khác nhau và nền văn hóa khác nhau. Nhưng trong tư cách một người bạn của Việt Nam, cho phép tôi chia sẻ quan điểm của tôi – tại sao tôi tin rằng các quốc gia sẽ thành công hơn khi các quyền phổ quát được tôn trọng.
Khi có tự do diễn đạt và tự do ngôn luận, và khi mọi người có thể chia sẻ ý tưởng và truy cập Internet và truyền thông xã hội không hạn chế, điều đó cung cấp nhiên liệu cho quá trình đổi mới mà các nền kinh tế cần để phát triển. Đó là nơi những ý tưởng mới phát sinh. Đó là cách một Facebook bắt đầu. Đó là cách mà một số công ty tuyệt vời nhất của chúng tôi bắt đầu – vì một người nào đó đã có một ý tưởng mới. Ý tưởng khác hẳn. Và họ có thể chia sẻ. Khi có tự do báo chí – khi các nhà báo và blogger có thể soi rọi ánh sáng vào bất công hay lạm quyền – điều đó khiến các viên chức có trách nhiệm giải trình và xây dựng niềm tin nơi công chúng rằng hệ thống đang hoạt động. Khi các ứng cử viên có thể tranh cử và tự do vận động, và các cử tri có thể chọn người lãnh đạo của mình trong những cuộc bầu cử tự do và công bằng, điều đó làm cho đất nước ổn định hơn, bởi vì người dân biết rằng tiếng nói của họ được tính đến và sự thay đổi ôn hòa là khả dĩ. Và nó đưa những người mới vào hệ thống.
Khi có tự do tôn giáo, điều này không chỉ cho phép mọi người thể hiện đầy đủ tình yêu thương và lòng từ bi vốn là trọng tâm của tất cả các tôn giáo lớn, mà còn cho phép các nhóm tôn giáo phục vụ cộng đồng của mình thông qua các trường học và bệnh viện, và chăm sóc người nghèo và người dễ bị tổn thương. Và khi có tự do hội họp – khi người dân được tự do thành lập tổ chức trong xã hội dân sự – thì đất nước có thể giải quyết tốt hơn những thách thức mà chính quyền đôi khi không thể tự giải quyết được. Vì vậy, quan điểm của tôi là việc duy trì các quyền này không phải là một mối đe dọa đối với ổn định, mà trên thực tế, là củng cố ổn định và là nền tảng của tiến bộ.
Nói cho cùng, chính vì khát vọng có được những quyền này mà mọi người trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam, có được nguồn cảm hứng để lật đổ chủ nghĩa thực dân. Và tôi tin rằng việc duy trì những quyền này là biểu hiện đầy đủ nhất của nền độc lập mà rất nhiều quốc gia trân trọng, kể cả tại đây, một quốc gia tự tuyên bố là “của Dân, do Dân và vì Dân.”
Việt Nam sẽ làm khác Hoa Kỳ. Và mỗi nước chúng ta sẽ làm khác với nhiều nước khác trên thế giới này. Nhưng, có những nguyên tắc căn bản mà tôi nghĩ tất cả chúng ta đều cố gắng hoàn thiện và cải tiến. Và tôi nói điều này như một người sắp rời nhiệm sở, cho nên giờ đây tôi có gần tám năm để suy ngẫm về cách thức hoạt động và tương tác của hệ thống của chúng tôi với các nước khác trên khắp thế giới, trong khi họ cũng liên tục cố gắng để cải tiến hệ thống của mình.
Cuối cùng, tôi nghĩ rằng quan hệ đối tác của chúng ta có thể đáp ứng được những thách thức toàn cầu mà không một nước nào có thể tự giải quyết được. Nếu chúng ta muốn bảo đảm được sức khỏe của người dân chúng ta và vẻ đẹp của hành tinh này, thì phát triển phải là bền vững. Những kỳ quan thiên nhiên như Vịnh Hạ Long hay Hang Sơn Đoòng phải được bảo tồn cho con cháu chúng ta. Nước biển dâng lên đe dọa bờ biển và sông ngòi mà rất nhiều người Việt Nam dựa vào. Và vì vậy, như là đối tác trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, chúng ta cần thực hiện những cam kết mà chúng ta đã đưa ra ở Paris, chúng ta cần giúp nông dân và làng xóm và những người sống bằng ngư nghiệp, để họ có thể thích nghi và đưa thêm năng lượng sạch đến những nơi như đồng bằng sông Mekong – một vựa lúa của thế giới mà chúng cần để nuôi dưỡng những thế hệ tương lai.
Và chúng ta có thể cứu được biết bao sinh mạng bên ngoài biên giới của mình. Bằng cách giúp những nước khác củng cố hệ thống y tế của họ, ví dụ như thế, chúng ta có thể ngăn chặn những vụ bùng phát bệnh tật, để chúng không trở thành nạn dịch đe dọa tất cả chúng ta. Và trong khi Việt Nam cam kết thêm nữa với Liên Hiệp Quốc về việc gìn giữ hòa bình, Hoa Kỳ tự hào vì giúp huấn luyện lực lượng gìn giữ hòa bình của các bạn. Và đó thật là một điều đáng ghi nhận – hai nước chúng ta từng đánh nhau nhưng giờ đây sát cánh bên nhau để giúp đỡ những nước khác cùng đạt được hòa bình. Như thế, ngoài quan hệ song phương, mối quan hệ đối tác của chúng ta cũng tạo điều kiện cho chúng ta giúp định hình môi trường quốc tế bằng những biện pháp tích cực.
Tuy vậy, việc hiện thực hóa hoàn toàn viễn cảnh tôi vừa mô tả hôm nay sẽ không xảy ra ngay lập tức, và nó cũng không phải là tất yếu. Sẽ có những vấp váp và những bước lùi trên đường đi. Sẽ có những lúc hiểu lầm. Cần phải có những nỗ lực bền bỉ và đối thoại chân thành để hai bên đều tiếp tục thay đổi. Nhưng khi xét lại toàn bộ lịch sử và những trở ngại mà chúng ta đã vượt qua, hôm nay, đứng trước các bạn tôi rất lạc quan về tương lai chung của chúng ta. Và, bao giờ cũng thế, niềm tin của tôi ăn sâu bén rễ vào tình bạn và những khát vọng chung của hai dân tộc chúng ta.
Tôi nghĩ đến tất cả những người Mỹ và Việt đã từng vượt qua một đại dương mênh mông – một số người đang đoàn tụ với gia đình lần đầu tiên sau nhiều thập niên – và những người, như Trịnh Công Sơn đã nói trong ca khúc của mình, nối vòng tay lớn, và đang mở rộng lòng mình và nhìn thấy tình người của chúng ta trong nhau.
Tôi nghĩ đến tất cả những người Mỹ gốc Việt đã thành công trong mọi lãnh vực – bác sĩ, nhà báo, quan tòa, quan chức. Một người trong số họ, được sinh ra ở đây, đã viết cho tôi một lá thư nói rằng, nhờ “Ơn Thượng Đế, tôi đã sống được Giấc Mơ Mỹ… Tôi rất tự hào là một người Mỹ nhưng cũng rất tự hào là một người Việt.” Và hôm nay, ông ấy đang ở đây, trở về quê hương nơi sinh của ông, bởi vì, theo ông nói, hoài bão của ông là “cải thiện đời sống của mỗi người Việt Nam”.
Tôi nghĩ đến một thế hệ người Việt mới – rất nhiều người trong các bạn, rất nhiều người trong những người trẻ đang ở đây – những người sẵn sàng tạo dấu ấn của mình trên thế gian này. Và tôi muốn nói với tất cả những thanh niên đang lắng nghe: Tài năng của các bạn, nghị lực của các bạn, những giấc mơ của các bạn – chính là trong những thứ đó, Việt Nam có tất cả những điều mà đất nước này cần để trở thành phồn vinh. Các bạn nắm trong tay vận mệnh của mình. Đây là thời khắc của các bạn. Và trong khi các bạn theo đuổi tương lai mà các bạn mong muốn, tôi muốn các bạn biết rằng Hoa Kỳ sẽ ở ngay bên cạnh các bạn như một đối tác và một người bạn.
Và sau đây nhiều năm, khi có thêm nhiều người Việt và Mỹ hơn nữa cùng nhau học hỏi; cùng nhau sáng tạo và kinh doanh; cùng nhau bảo vệ an ninh của chúng ta; và cùng nhau thúc đẩy nhân quyền và bảo vệ hành tinh của chúng ta – tôi hy vọng các bạn sẽ nhớ lại thời điểm này và tìm thấy hy vọng từ viễn cảnh mà tôi gửi gắm hôm nay. Hay là, liệu tôi có thể nói một cách khác – bằng những lời mà các bạn đã biết rõ từ Truyện Kiều – “Rằng trăm năm cũng từ đây. Của tin gọi một chút này làm ghi.”
Cám ơn các bạn. Cám ơn các bạn rất nhiều. Cám ơn, Việt Nam. Cám ơn.
Nguồn: https://www.whitehouse.gov/the-press-office/2016/05/24/remarks-president-obama-address-people-vietnam
Thứ Năm, 19 tháng 5, 2016
Án tử hình – các lập luận ủng hộ
nguồn: http://luatkhoa.org/2014/12/an-tu-hinh-cac-lap-luan-ung-ho/
Buộc kẻ thủ ác phải đền tội
Sau đây là ba luận điểm cơ bản ủng hộ án tử hình, với lý do “đền tội”:
Tất cả những kẻ có tội đều đáng bị trừng phạt;
Chỉ những kẻ có tội mới đáng bị trừng phạt;
Những kẻ có tội phải bị trừng phạt tương xứng với mức độ nghiêm trọng của tội ác mà họ đã phạm.
Theo đó, công lý đòi hỏi rằng mỗi người đều phải bị trừng phạt vì những sai trái của mình, và bị trừng phạt theo một cách tương xứng với sai trái đó. Mỗi kẻ phạm tội đều phải nhận lấy những gì tương xứng với tội của họ, trong trường hợp phạm tội sát nhân thì cái tương xứng với tội đó là cái chết.
Biện pháp trừng phạt trong mỗi trường hợp cụ thể đều tùy thuộc vào mức độ dã man của tội ác, vào hành vi ứng xử của kẻ phạm tội, và vào tình trạng không được bảo vệ cũng như không thể tự vệ của nạn nhân. Xác lập những hình phạt phù hợp là cách tòa án đáp lại tiếng kêu đòi công lý của xã hội trước bọn tội phạm. Công lý đòi hỏi các tòa án phải áp đặt những hình phạt tương xứng với tội ác, làm sao để các bản án phản ánh được sự phẫn nộ và ghê tởm của công luận đối với tội ác. (Chánh án A.S. Anand và N.P. Singh, Tòa án Tối cao Ấn Độ)
Nhiều người cho rằng các quan điểm trên đây phù hợp với cảm nhận của họ về công lý.
Quan điểm đó cũng được hỗ trợ thêm bởi lập luận “một con mắt đổi một con mắt” [một ý trong Kinh Cựu ước, có thể dịch sang tiếng Việt là “ăn miếng trả miếng” – ND]. Nhưng biện luận như vậy cho thấy người phát biểu hiểu sai hoàn toàn cụm từ gốc trong Kinh Cựu ước. Thật ra, Kinh Cựu ước viết “một con mắt đổi một con mắt” có nghĩa là chỉ kẻ có tội phải bị trừng phạt, và hình phạt đó không được quá khoan dung cũng như không quá hà khắc.
Tác dụng răn đe những kẻ khác
Án tử hình thường được biện hộ bởi luận điểm cho rằng, khi xử tử những kẻ sát nhân, chúng ta sẽ ngăn chặn được những kẻ sát nhân tiềm tàng, để chúng không giết người. Việc răn đe sẽ có hiệu quả nhất nếu hình phạt được tiến hành nhanh chóng sau khi tội ác xảy ra – tương tự như việc một đứa trẻ sẽ biết là không bao giờ nên cho tay vào lửa, bởi vì hậu quả của hành động cho tay vào lửa là bị bỏng ngay lập tức.
Tiến trình tố tụng làm cho hình phạt càng cách xa tội ác – về thời điểm hoặc về độ xác thực – thì tính chất răn đe của hình phạt có thể càng kém đi.
Một số người ủng hộ án tử hình cho rằng hình phạt này có lợi ngay cả khi không còn tác dụng răn đe. Học giả John McAdams, khoa Chính trị học, Đại học Marquette, phát biểu: “Nếu chúng ta xử tử những kẻ sát nhân và điều đó không có tác dụng răn đe trên thực tế, thì cũng là chúng ta đã trừ khử được những kẻ sát nhân. Còn nếu chúng ta không xử tử được chúng, mà việc xử tử lẽ ra đã có thể ngăn chặn nhiều tên sát nhân khác, thì tức là chúng ta đã chấp nhận việc những nạn nhân vô tội có thể bị giết hại. Tôi sẽ muốn mạo hiểm chọn phương án đầu hơn”.
Tác dụng phục hồi nhân phẩm
Tất nhiên, tử hình không thể phục hồi mạng sống của tử tù và trả tử tù về lại xã hội. Nhưng có nhiều ví dụ về việc những người bị kết án tử hình đã tận dụng khoảng thời gian còn lại trong đời để ăn năn hối cải, và họ thường trải nghiệm những khoảnh khắc tâm linh rất sâu sắc.
Nhà triết học, thần học thời Trung cổ Thomas Aquinas [phiên âm trong tiếng Việt là Tô-mát Đa-canh, theo tiếng Pháp Thomas d’Aquin – ND] cho rằng khi chấp nhận hình phạt tử hình là khi kẻ phạm tội đã chuộc được tội lỗi của mình và nhờ đó sẽ thoát bị trừng phạt ở kiếp sau.
Ngăn chặn tái phạm
Một điều chắc chắn là những người bị tử hình sẽ không thể phạm tội thêm nữa. Giả sử kẻ phạm tội bị kết án chung thân chẳng hạn, kẻ đó không còn nguy hiểm với cộng đồng, nhưng lại vẫn là một mối nguy hiểm đối với quản giáo và các bạn tù. Hình phạt tử hình sẽ chấm dứt vĩnh viễn mối đe dọa đó.
Khép lại quá khứ đau đớn
Người ủng hộ thường cho rằng án tử hình chấm dứt mọi dằn vặt của gia đình nạn nhân. Tuy nhiên, đây là một lập luận khá yếu, bởi lẽ mỗi gia đình thường có cách phản ứng khác nhau. Một số gia đình không thấy việc có thêm một người chết nữa có thể khép lại tất cả; do đó lập luận này không biện hộ được cho án tử hình.
Giúp đỡ cảnh sát điều tra
Thành khẩn hợp tác và hưởng khoan hồng là một cơ chế thường được sử dụng ở nhiều nước. Đó là một cơ chế cho phép giảm án cho kẻ phạm tội nếu hắn chịu hợp tác với cảnh sát. Nếu hình phạt có thể lên đến mức tử hình, thì tử tù có động cơ rất mạnh để xin được giảm án, thậm chí chỉ cần xuống chung thân và vĩnh viễn không ân xá cũng được. Do đó, có thể nói rằng án tử hình là một công cụ hữu ích đối với công an, cảnh sát điều tra.
Đây là một lập luận rất yếu, cũng tương tự như lập luận cho rằng tra tấn là việc có thể chấp nhận được vì nó là công cụ hữu hiệu của công an, cảnh sát.
Quan điểm của Nhật Bản
Nhật Bản hiếm khi dùng đến tử hình, mỗi năm thi hành án với khoảng 3 người.
Một số nhà tâm lý Nhật Bản đã đưa ra một lý lẽ cực kỳ độc đáo để biện hộ cho việc duy trì án tử hình, đó là: Án tử hình có một vai trò tâm lý quan trọng trong cuộc sống của dân chúng Nhật – những người vốn dĩ sống trong stress và áp lực công việc triền miên. Án tử hình củng cố niềm tin rằng điều xấu sẽ đến với những kẻ đáng phải chịu điều xấu; và đồng thời cũng làm mạnh thêm niềm tin ngược lại rằng những gì tốt đẹp sẽ đến với “người tốt”.
Theo cách đó, án tử hình cần thiết, vì nó cho người ta một sự giải thoát về tâm lý khỏi cái đơn điệu, nhàm chán và quá tải trong công việc, cho người ta hy vọng rằng phấn đấu, nỗ lực rồi sẽ được tưởng thưởng.
Điều kỳ quặc là lập luận này có vẻ lại được nhiều người Nhật tán đồng. Thống kê chính thức cho thấy có tới 81% dân số ủng hộ quan điểm trên. Nó đưa đến một ý kiến nữa: Nếu xử tử một vài người mà làm gia tăng tổng thể hạnh phúc của nhiều người, thì đó là việc tốt.
Tuy nhiên, cũng có một phong trào phản đối án tử hình, dù còn nhỏ nhưng ngày càng lớn tiếng hơn ở Nhật Bản.
Lược dịch từ tài liệu của BBC, Ethics Guide: Arguments in favor of Capital Punishment
Buộc kẻ thủ ác phải đền tội
Sau đây là ba luận điểm cơ bản ủng hộ án tử hình, với lý do “đền tội”:
Tất cả những kẻ có tội đều đáng bị trừng phạt;
Chỉ những kẻ có tội mới đáng bị trừng phạt;
Những kẻ có tội phải bị trừng phạt tương xứng với mức độ nghiêm trọng của tội ác mà họ đã phạm.
Theo đó, công lý đòi hỏi rằng mỗi người đều phải bị trừng phạt vì những sai trái của mình, và bị trừng phạt theo một cách tương xứng với sai trái đó. Mỗi kẻ phạm tội đều phải nhận lấy những gì tương xứng với tội của họ, trong trường hợp phạm tội sát nhân thì cái tương xứng với tội đó là cái chết.
Biện pháp trừng phạt trong mỗi trường hợp cụ thể đều tùy thuộc vào mức độ dã man của tội ác, vào hành vi ứng xử của kẻ phạm tội, và vào tình trạng không được bảo vệ cũng như không thể tự vệ của nạn nhân. Xác lập những hình phạt phù hợp là cách tòa án đáp lại tiếng kêu đòi công lý của xã hội trước bọn tội phạm. Công lý đòi hỏi các tòa án phải áp đặt những hình phạt tương xứng với tội ác, làm sao để các bản án phản ánh được sự phẫn nộ và ghê tởm của công luận đối với tội ác. (Chánh án A.S. Anand và N.P. Singh, Tòa án Tối cao Ấn Độ)
Nhiều người cho rằng các quan điểm trên đây phù hợp với cảm nhận của họ về công lý.
Quan điểm đó cũng được hỗ trợ thêm bởi lập luận “một con mắt đổi một con mắt” [một ý trong Kinh Cựu ước, có thể dịch sang tiếng Việt là “ăn miếng trả miếng” – ND]. Nhưng biện luận như vậy cho thấy người phát biểu hiểu sai hoàn toàn cụm từ gốc trong Kinh Cựu ước. Thật ra, Kinh Cựu ước viết “một con mắt đổi một con mắt” có nghĩa là chỉ kẻ có tội phải bị trừng phạt, và hình phạt đó không được quá khoan dung cũng như không quá hà khắc.
Tác dụng răn đe những kẻ khác
Án tử hình thường được biện hộ bởi luận điểm cho rằng, khi xử tử những kẻ sát nhân, chúng ta sẽ ngăn chặn được những kẻ sát nhân tiềm tàng, để chúng không giết người. Việc răn đe sẽ có hiệu quả nhất nếu hình phạt được tiến hành nhanh chóng sau khi tội ác xảy ra – tương tự như việc một đứa trẻ sẽ biết là không bao giờ nên cho tay vào lửa, bởi vì hậu quả của hành động cho tay vào lửa là bị bỏng ngay lập tức.
Tiến trình tố tụng làm cho hình phạt càng cách xa tội ác – về thời điểm hoặc về độ xác thực – thì tính chất răn đe của hình phạt có thể càng kém đi.
Một số người ủng hộ án tử hình cho rằng hình phạt này có lợi ngay cả khi không còn tác dụng răn đe. Học giả John McAdams, khoa Chính trị học, Đại học Marquette, phát biểu: “Nếu chúng ta xử tử những kẻ sát nhân và điều đó không có tác dụng răn đe trên thực tế, thì cũng là chúng ta đã trừ khử được những kẻ sát nhân. Còn nếu chúng ta không xử tử được chúng, mà việc xử tử lẽ ra đã có thể ngăn chặn nhiều tên sát nhân khác, thì tức là chúng ta đã chấp nhận việc những nạn nhân vô tội có thể bị giết hại. Tôi sẽ muốn mạo hiểm chọn phương án đầu hơn”.
Tác dụng phục hồi nhân phẩm
Tất nhiên, tử hình không thể phục hồi mạng sống của tử tù và trả tử tù về lại xã hội. Nhưng có nhiều ví dụ về việc những người bị kết án tử hình đã tận dụng khoảng thời gian còn lại trong đời để ăn năn hối cải, và họ thường trải nghiệm những khoảnh khắc tâm linh rất sâu sắc.
Nhà triết học, thần học thời Trung cổ Thomas Aquinas [phiên âm trong tiếng Việt là Tô-mát Đa-canh, theo tiếng Pháp Thomas d’Aquin – ND] cho rằng khi chấp nhận hình phạt tử hình là khi kẻ phạm tội đã chuộc được tội lỗi của mình và nhờ đó sẽ thoát bị trừng phạt ở kiếp sau.
Ngăn chặn tái phạm
Một điều chắc chắn là những người bị tử hình sẽ không thể phạm tội thêm nữa. Giả sử kẻ phạm tội bị kết án chung thân chẳng hạn, kẻ đó không còn nguy hiểm với cộng đồng, nhưng lại vẫn là một mối nguy hiểm đối với quản giáo và các bạn tù. Hình phạt tử hình sẽ chấm dứt vĩnh viễn mối đe dọa đó.
Khép lại quá khứ đau đớn
Người ủng hộ thường cho rằng án tử hình chấm dứt mọi dằn vặt của gia đình nạn nhân. Tuy nhiên, đây là một lập luận khá yếu, bởi lẽ mỗi gia đình thường có cách phản ứng khác nhau. Một số gia đình không thấy việc có thêm một người chết nữa có thể khép lại tất cả; do đó lập luận này không biện hộ được cho án tử hình.
Giúp đỡ cảnh sát điều tra
Thành khẩn hợp tác và hưởng khoan hồng là một cơ chế thường được sử dụng ở nhiều nước. Đó là một cơ chế cho phép giảm án cho kẻ phạm tội nếu hắn chịu hợp tác với cảnh sát. Nếu hình phạt có thể lên đến mức tử hình, thì tử tù có động cơ rất mạnh để xin được giảm án, thậm chí chỉ cần xuống chung thân và vĩnh viễn không ân xá cũng được. Do đó, có thể nói rằng án tử hình là một công cụ hữu ích đối với công an, cảnh sát điều tra.
Đây là một lập luận rất yếu, cũng tương tự như lập luận cho rằng tra tấn là việc có thể chấp nhận được vì nó là công cụ hữu hiệu của công an, cảnh sát.
Quan điểm của Nhật Bản
Nhật Bản hiếm khi dùng đến tử hình, mỗi năm thi hành án với khoảng 3 người.
Một số nhà tâm lý Nhật Bản đã đưa ra một lý lẽ cực kỳ độc đáo để biện hộ cho việc duy trì án tử hình, đó là: Án tử hình có một vai trò tâm lý quan trọng trong cuộc sống của dân chúng Nhật – những người vốn dĩ sống trong stress và áp lực công việc triền miên. Án tử hình củng cố niềm tin rằng điều xấu sẽ đến với những kẻ đáng phải chịu điều xấu; và đồng thời cũng làm mạnh thêm niềm tin ngược lại rằng những gì tốt đẹp sẽ đến với “người tốt”.
Theo cách đó, án tử hình cần thiết, vì nó cho người ta một sự giải thoát về tâm lý khỏi cái đơn điệu, nhàm chán và quá tải trong công việc, cho người ta hy vọng rằng phấn đấu, nỗ lực rồi sẽ được tưởng thưởng.
Điều kỳ quặc là lập luận này có vẻ lại được nhiều người Nhật tán đồng. Thống kê chính thức cho thấy có tới 81% dân số ủng hộ quan điểm trên. Nó đưa đến một ý kiến nữa: Nếu xử tử một vài người mà làm gia tăng tổng thể hạnh phúc của nhiều người, thì đó là việc tốt.
Tuy nhiên, cũng có một phong trào phản đối án tử hình, dù còn nhỏ nhưng ngày càng lớn tiếng hơn ở Nhật Bản.
Lược dịch từ tài liệu của BBC, Ethics Guide: Arguments in favor of Capital Punishment
Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2016
Tự do Tư tưởng - Tự do Ngôn luận
nguồn: http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/tu-do-tu-tuong-tu-do-ngon-luan.html
Hoàng Đạo
Tự Lực Văn Đoàn - Số 171, 172 (Ngày Nay, 1939)
07:30' CH - Thứ ba, 01/03/2016
Tự do Tư tưởng
Tự do cá nhân là tự do của thân thể con người. Nhưng ngoài thân thể, còn có tinh thần. Tự do tư tưởng chính là sự tự do của người ta về mặt tinh thần vậy. Người đã được tôn trọng, thì linh hồn, tư tưởng của người, là phần tôn quý nhất trong con người, lẽ tự nhiên là phải được quý trọng, phải được nảy nở, phát triển ra một cách tự do.
Tự do cá nhân là tự do của thân thể con người. Nhưng ngoài thân thể, còn có tinh thần. Tự do tư tưởng chính là sự tự do của người ta về mặt tinh thần vậy. Người đã được tôn trọng, thì linh hồn, tư tưởng của người, là phần tôn quý nhất trong con người, lẽ tự nhiên là phải được quý trọng, phải được nảy nở, phát triển ra một cách tự do.
Sự tự do ấy, đối riêng với từng người, thì thật là dễ dàng, không cần phải bàn luận đến. Tư tưởng của ta, đối riêng với ta, muốn bông lông hay ngang trái đến thế nào mặc dầu, cũng không ai kềm chế nổi, vì không ai biết đến để mà kềm chế. Thế cho nên, tự do tư tưởng không phải chỉ có nghĩa là tự muốn có ý kiến gì trong thâm tâm cũng được, mà còn có nghĩa là ý kiến ấy có thể tự do phát biểu, tự do truyền bá nữa.
Chính vì nghĩa đó nên bản tuyên ngôn Nhân quyền và Công quyền (Pháp), điều thứ X và thứ XI, đã tuyên bố
ĐIỀU THỨ X – Không có ai phải lo ngại về tư tưởng của mình, dù về tôn giáo cũng vậy, miễn là sự biểu lộ không trở ngại đến trật tự của công chúng do pháp luật định ra.
ĐIỀU THỨ XI – Việc tự do thông đạt ý kiến và tư tưởng là một quyền hạn trong các quyền hạn rất quí của người ta. Vậy phàm công dân nào cũng có thể được tự do ngôn luận, tự do trước tác, tự do ấn loát, trừ ra khi lạm dụng quyền tự do ấy thì phải chịu trách nhiệm theo như pháp luật đã định.
Xem như vậy, tự do tư tưởng gồm có nhiều quyền tự do khác, tự do tôn giáo, tự do giáo dục, tự do ngôn luận, tự do hội họp.
Thế nào là tôn giáo tự do? Là phàm làm người, ai muốn theo tôn giáo nào hay không theo tôn giáo nào cả tùy ý, nhập giáo hay xuất giáo tùy lòng.
Quyền tự do này không phải là lúc nào cũng có. Người ta nhận ra rằng lòng tương thứ về mặt tôn giáo rất hiếm. Thường thường, tôn giáo nào được nhiều người tín trong một nước, hay được chính phủ theo, là chiếm lấy phần thắng, tìm cách tàn hại các tôn giáo khác. Ngày trước, ở các nước quân chủ, bày tôi và thần dân phải theo tôn giáo của vua chúa, dẫu ở Đông phương hay Âu châu cũng vậy. Ở những nước ấy lòng tín ngưỡng rất mạnh, vì vậy, hay xảy ra những cuộc tàn sát những người theo một tôn giáo khác tôn giáo của chính phủ, như ở bên nước Pháp về thế kỷ thứ XVI. Cả đến nước Nam ta, là một nước rất có lượng chiêu nạp các tôn giáo, mà cách đây không đầy một trăm năm, cũng đã sinh ra những việc giết hại các giáo sĩ của đạo Thiên Chúa. Coi đó, tôn giáo tự do là một quyền tự do mãi đến gần đây mới được nhân loại nhìn nhận.
Quyền tự do ấy đã được nhìn nhận về nguyên tắc, thì về mặt thực hành, người ta phải nghĩ đến cách làm cho quyền tự do ấy được phát triển. Muốn thế, một là trong xã hội, không bao giờ được lấy tôn giáo để định phận cá nhân, một người trong nước Annam chẳng hạn không được vì theo đạo Gia-tô hay đạo Phật mà coi hơn được người khác. Hai là không có thể bắt buộc hay ngăn cản người ta theo một tôn giáo nào. Theo hay không theo là tùy ở lương tâm của người ta.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà không ai có quyền khuyên nhủ người ta theo tôn giáo hay là bỏ hẳn tôn giáo: trái lại, quyền ấy là quyền của mọi người, vì sự khuyên nhủ ấy chỉ là sự phát biểu của một ý kiến, một tư tưởng. Ba là chính phủ - ở những nước chính phủ - phải đứng trung lập về mặt tôn giáo, không được thiên vị một tôn giáo nào; và chỉ có quyền can thiệp đến để gìn giữ, bảo vệ trật tự chung mà thôi.
Tự do giáo dục chỉ là một hình thể của sự tự do về tư tưởng. Người ta, đã được tự do, phải có quyền nâng cao nhân phẩm của mình, có quyền làm nẩy nở năng lực của mình, nghĩa là có quyền học cho biết thêm. Và quyền học ấy sẽ không có, nếu không ai có quyền dạy, nếu không có tự do giáo dục. Vì rằng nếu muốn học mà ai nấy đều phải tìm đến một giáo môn thôi, thì sự học ấy không được hoàn toàn tự do.
Đối với người đã đủ trí khôn để suy xét, thì không còn nghi ngờ gì nữa, ai ai cũng công nhận rằng đã đủ trí khôn, là được tự do kén chọn lối học, thầy dạy của mình, và có lầm lẫn thì tự mình chịu lấy trách nhiệm. Nhưng đối với con trẻ, vấn đề khó khăn và phiền nhiễu hơn. Là vì ở đây, ta thấy quyền của cha mẹ đi đôi với quyền của nhà nước.
Cha mẹ, đối với con, vừa có quyền, vừa có bổn phận nâng cao nhân phẩm của những tâm hồn non nớt yêu dấu ấy.
Bổn phận ấy, cha mẹ có thể tự mình làm chọn, và vì thế, cha mẹ hẳn phải có quyền chọn thầy học cho con mình; cha mẹ đã có quyền đem những ý tưởng của mình truyền cho con, thì cũng có thể tìm người đồng tư tưởng thay mình. Tuy nhiên, con trẻ không phải chỉ là của gia đình mà thôi, mà về sau sẽ còn là một công dân, một phần tử của nước, và vì thế, nước cũng có quyền và có bổn phận trông nom coi sóc đến sự học của những người vị thành đinh.
Hai dòng tư tưởng ấy có khi tương phản, có khi hòa hợp nhau; trong thực tế, cả cha mẹ lẫn nước nhà đều có ảnh hưởng đến nền giáo dục của con trẻ. Có một điều đáng chú ý nhất, là cha mẹ không có quyền để cho con chịu sự ngu dốt; và chính cả nước cũng có bổn phận lo cho con trẻ có một chút học vấn. Cái ý đó đã khiến các nước văn minh đặt ra luật cưỡng bách giáo dục; phàm cha mẹ phải cho con em có một nền học vấn, và muốn giúp cho sự học ấy, chính phủ phải đặt đủ trường sơ đẳng để dạy trẻ em. Những trường ấy cần phải không lấy tiền học phí và cần phải theo một chương trình trung lập, cốt là để cho con trẻ một ít học thức cần dùng cho đời họ về sau này. Lên trên một bực thì sự học được tự do. Thí dụ như ở bên Pháp, chính phủ đặt ra các trường công, đủ các hạng; và ở cạnh, những người có đủ đảm bảo để dạy học, có quyền mở trường tư ở dưới quyền kiểm soát của chính phủ. Tuy nhiên, ngay như ở bên Pháp, ta thấy quyền tự do ấy không được toàn vẹn. Là vì nếu ai nấy đều có quyền theo học ai cũng được, đến hạng nào cũng được, nhiều người vì tình cảnh không được tự do học đến bậc cao đẳng và vì thế, có sự bất công giữa nhân dân. Nhưng có lẽ ý tưởng này có can hệ đến sự bình đẳng hơn là nguyên tắc tự do.
Tự do Ngôn luận
Tự do tư tưởng chỉ là chuyện chiêm bao nếu tư tưởng không được tự do truyền bá. Sự tự do truyền bá ấy, người ta gọi là tự do ngôn luận. Tôi có những tư tưởng, những ý kiến tôi tin là xác đáng, nếu tôi chỉ có quyền giữ riêng cho tôi, thì một sự tiến bộ nhỏ, một sự thay đổi con không sao xảy ra trong xã hội được. Tôi cần phải đem những ý kiến, tư tưởng ấy truyền bá cho người khác biết; hoặc dùng lời nói, hoặc dùng báo chí, sách vở.
Tự do báo chí hay tự do ngôn luận là một tự do người ta đã tranh đấu nhiều lắm mới có. Những chế độ chuyên chế rất sợ tự do ấy, vì biết rằng đó là một sức mạnh có thể đạp đổ mọi điều áp bức, lay chuyển cái trật tự hiện có trong xã hội. Cho nên, ở dưới quyền các vị đế vương xưa dẫu ở bên Pháp hay ở bên Annam, ở Tây phương hay ở Đông phương, tự do ngôn luận chỉ là một mộng tưởng. Và ngay bây giờ, ở những nước người ta không muốn cho dân trí mở mang, vì sợ thiệt hại đến đặc quyền của một số ít, sự tự do người ta chôn chặt nhất, là tự do ngôn luận. Vì thế, muốn biết một nước đương theo chế độ dân chủ hay chế độ chuyên chế độc tài không có gì đáng làm tiêu chuẩn hơn là xem trong nước ấy báo chí được tự do hay bị trói buộc.
Tuy nhiên, sức mạnh của ý tưởng tự do lớn đến nỗi ở ngay những nước chuyên chế hay độc tài, chính phủ cũng không dám nói trắng trợn ra rằng tự do ngôn luận là một cái nạn chung, nên triệt bỏ. Họ thường dựa vào sự vọng dụng quyền tự do ngôn luận để khuôn tư tưởng dân chúng vào nơi họ muốn. Mà tự do nào chảng sinh ra sự vọng dụng 1) !
Nhất là đối với tự do ngôn luận, thì sự vọng dụng càng dễ trông thấy. Nào là làm náo động nhân tâm bằng những tin tức bịa đặt nào là xui giục nhân dân nổi loạn hay phảm vào trọng tội khác, nào là làm bại hoại phong hóa, nào là phỉ báng vu cáo để làm thiệt hại đến danh dự của người khác.
Bằng cứ vào những sự vọng dụng ấy, chính thể chuyên chế hoặc là triệt bỏ hẳn tự do ngôn luận, hoặc là tìm phương pháp bó buộc cho thật chặt chẽ sự tự do ấy. Những phương pháp ấy, họ bảo là để đề phòng những sự vọng dụng của sự tự do ngôn luận. Không kể những nước độc tài, là những nước báo chí sách vở đều phải theo lệnh của chính phủ, những nước có chính thể chuyên chế đều dùng những phương pháp sau này; báo chí muốn xuất bản cần phải có phép của chính phủ, chính phủ có quyền cấm xuất bản hay là thu giấy phép về, bài vở đăng báo cần phải qua phòng kiểm duyệt, phòng ấy cho phép mới được đăng; người quản lý một tờ báo phải có tiền bảo đảm, báo chí phải chịu thuế nặng; mở nhà in phải có bằng cấp và phải được chính phủ cho phép. Những phương pháp ấy có khi cũng dùng một lúc, có khi chỉ dùng một vài. Như ở Đông Dương, ngoài Nam kỳ là thuộc địa không kể, còn thì báo chí muốn xuất bản cần phải được phép của chính phủ, nhưng hiện giờ thì phòng kiểm duyệt đã bãi bỏ và sự đảm bảo bắt buộc và thuế khóa thì báo chí không phải chịu.
Nhưng, như ta đã nhận rõ, tự do không phải là phóng túng. Những sự vọng dụng không thể là một cớ để quyết án một quyền tự do. Những phương pháp đề phòng trên kia chỉ là một cách làm cho chính phủ nắm quyền lập dư luận vào trong tay, đàn áp những tư tưởng không hợp với chính kiến của mình, nghĩa là chỉ là một cớ khi chính phủ dùng để đàn áp sự tự do ngôn luận.
Vì vậy, cuộc Đại cách mệnh Pháp, khi bãi bỏ mọi sự đàn áp quyền lợi của công dân, tuyên bố rằng: phàm là công dân, ai cũng có quyền nói, viết, in trong sự tự do, miễn là phải chịu trách nhiệm khi vọng dụng sự tự do ấy trong những trường hợp luật nước định.
Nguyên tắc ấy là nguyên tắc những nước dân chủ, đều tôn kính khi đặt ra luật để tố chức chế độ báo chí. Xuất bản báo chí sẽ được hoàn toàn tự do, miễn là có người chịu trách nhiệm về những bài viết có thể phương hại đến danh dự người khác hay đến pháp luật. Không có một phương pháp đề phòng nào nữa, chỉ có những đạo luật định phạt những sự vọng dụng có thể xảy ra.
Một thí dụ: nước Pháp, Đạo luật ngày 29 tháng 7 năm 1881 về chế độ báo chí đã theo đúng nguyên tắc ấy. Không có phương pháp đề phòng nào. Những giấy in để cho công chúng đọc chỉ cần phải có biên tên và trụ sở của người in. Báo chí xuất bản không cần xin phép ai, chỉ cần phải có một tờ khai lên tờ báo, tên và chỗ ở của viên quản lý và của nhà in đệ ra phòng biện lý. Mỗi tờ báo cũng cần có biên tên của quản lý và một bản ra nha đốc lý. Những phương cách ấy không có tính cách đề phòng, mà chỉ cốt để định rõ người nào phải chịu trách nhiệm đối với pháp luật, nếu có xảy ra sự vọng dụng.
Những sự vọng dụng ấy cần phải định rõ từng khoản, một là để nhà báo biết đường mà trách, hai là để cho hợp với một nguyên tắc rất hay của luật pháp, không có tội gì mà không có luật định. Thí dụ như những sự phỉ báng hay mạ lỵ, xui giục phạm pháp, làm bại hoại phong hóa, v.v… định rõ trong đạo luật 1882.
Xem như ví dụ như vậy thì luật 1881 đã hết sức che trở cho sự tự do ngôn luận trong nước Pháp. Tuy nhiên, trong nước ấy, không phải ai ai cũng có thể xuất bản được một tờ báo, vì muốn thế, cần phải có đủ tiền tài để mua nhà in, trữ giấy, trả công thợ. Thế cho nên, người ta đã có thể chỉ trích rằng tự do báo chí ở bên Pháp chưa được hoàn toàn, dư luận ở đấy chỉ là dư luận của những ông chủ báo giàu có. Ngôn luận như vậy, chỉ được hoàn toàn tự do khi mà bất cứ một người công dân nào cũng có thể có máy in, giấy vở để in những tư tưởng của mình.
Tuy nhiên, trong khi đợi các ngày đẹp đẽ lý tưởng ấy, chế độ báo chí ở Pháp đối với ta cũng là một chế độ bảo vệ sự tự do ngôn luận rất mực rồi.
Ghi chú:
1) Vọng dụng: lạm dụng, dùng bừa, dùng bậy, quá lố
Thứ Tư, 20 tháng 1, 2016
Kiến nghị giới hạn quyền của công an xã (Ngô Ngọc Trai)
Xin mời các luật sư thực hiện chức năng xã hội của mình bằng cách tham gia ghi danh ủng hộ kiến nghị này, xin cảm ơn.
---------------
I/ NGƯỜI KIẾN NGHỊ
Chúng tôi, những người có tên trong danh sách dưới đây, ý thức về bổn phận và trách nhiệm của mình trước cộng đồng xã hội, có mong muốn phụng sự công lý và thúc đẩy xây dựng nền tư pháp Việt Nam được trở nên công minh tiến bộ.
II/ CĂN CỨ PHÁP LÝ THỰC HIỆN VIỆC KIẾN NGHỊ
Hiến pháp Việt Nam sửa đổi năm 2013 Điều 28 quy định: 1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.
Luật luật sư tại Điều 3 quy định về chức năng xã hội của luật sư là góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân.
III/ NỘI DUNG VẤN ĐỀ KIẾN NGHỊ
Mới đây báo chí đưa tin hai vụ việc xảy ra ở Quảng Ngãi và Thái Bình liên quan đến việc làm của công an xã dẫn đến tình trạng bạo hành xâm hại tính mạng sức khỏe của các em thiếu niên học sinh.
Vụ việc ở xã Tịnh Bắc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi xảy ra như sau (theo bài trên báo điện tử Dân trí): Sáng thứ 2 ngày 11/1/2016 công an viên thuộc công an xã Tịnh Bắc đến lớp nơi em nam sinh đang học lớp 9, dẫn giải em này sang trụ sở công an xã lấy lời khai về một vụ trộm cắp tài sản, sau đó em này đã uống thuốc diệt cỏ tự tử và đến ngày 16/1 thì tử vong.
Vụ việc ở xã Tây Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xảy ra như sau (theo bài trên báo điện tử VTC): Chập tối ngày 22/10/2015 công an viên thuộc công an xã Tây Ninh đi tìm và dẫn giải một em học sinh lớp 9 về trụ sở công an xã liên quan đến một vụ trộm cắp tài sản. Hôm sau cháu kêu đau, gia đình đưa đi khám chữa thì được biết cháu đã bị đánh khi ở trụ sở công an xã.
Chúng tôi đặt câu hỏi: Việc công an xã đi tìm nghi phạm rồi triệu tập dẫn giải đến trụ sở công an xã để lấy lời khai, có đúng thẩm quyền của công xã không? Pháp luật có quy định cho công an xã được làm việc này không?
Rà soát các quy định chúng thì thấy tại Điều 28 Thông tư 28/2014/TT-BCA của Bộ công an quy định về công tác điều tra hình sự trong công an nhân dân, có quy định về thẩm quyền xử lý một số việc của công an cấp xã. Theo đó có ba trường hợp:
1. Nếu công an xã bắt được người phạm tội quả tang, hoặc người dân bắt được người phạm tội quả tang dẫn giải đến công an xã, thì công an xã được lấy lời khai nghi phạm.
2. Nếu công an xã được báo về tội phạm đang diễn ra, công an xã đến hiện trường để ngăn chặn và dẫn giải nghi phạm về trụ sở thì công an xã được lấy lời khai.
3. Trường hợp còn lại, công an xã nhận được trình báo của bị hại về các vụ việc thì chỉ tiếp nhận thông tin sự việc, phân loại và chuyển hồ sơ vụ việc đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết mà không được truy tìm dẫn giải nghi phạm để lấy lời khai.
Theo đó công an xã không được dựa vào lời trình bày của bị hại, nghi cho ai đó vi phạm, rồi truy tìm người đó, dẫn giải về trụ sở để lấy lời khai. Đây là việc làm xâm phạm quyền công dân nghiêm trọng, trong khi việc bắt người dẫn giải và lấy lời khai là những hoạt động điều tra bài bản, đòi hỏi phải được thực hiện bởi những đơn vị có chuyên môn nghiệp vụ và đúng thẩm quyền. Đến như cơ quan điều tra bắt người còn phải có quyết định và xin phê chuẩn của viện kiểm sát để được giám sát, tại sao lại để công an xã dễ dàng dẫn giải bắt người để lấy lời khai như vậy?
Qua hai vụ việc ở Quảng Ngãi và Thái Bình và thực tế ở nhiều vùng nông thôn khác, chúng tôi nhận thấy công an xã sau khi tiếp nhận tin báo của bị hại (thường là về các vụ trộm cắp), đã dựa theo nghi vấn của bị hại để truy tìm và dẫn giải nghi phạm (thường là các cháu thiếu niên) về trụ sở công an xã để lấy lời khai. Trong khi pháp luật không cho phép công an xã được làm việc này. Đây là sự lạm quyền có tính phổ biến, chứa bạo lực, xâm hại đến tính mạng sức khỏe của các cháu thiếu niên học sinh.
Việc cho phép công an xã được lấy lời khai (là một hoạt động điều tra làm rõ sự việc) trong khi lại không có quy định phòng ngừa tương ứng như không có người đóng vai trò của người kiểm sát viên, không có quy định ghi âm ghi hình việc lấy lời khai của công an xã, không có quy định cho phép luật sư tham gia, hoặc không có quy định buộc công an xã thông báo và giải thích về quyền và nghĩa vụ cho nghi phạm.
IV/ KIẾN NGHỊ
Nay thực hiện chức năng bổn phận xã hội của mình, chúng tôi kiến nghị như sau:
1. Căn cứ theo Pháp lệnh công an xã năm 2008, tại Điều 21 quy định về trách nhiệm của Bộ Công an về việc chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp của cho công an xã. Chúng tôi đề nghị Bộ công an có chỉ đạo hướng dẫn làm rõ các việc được phép làm của công an xã, và những biện pháp kiểm soát tương ứng, nhằm ngăn ngừa tình trạng lạm quyền xâm hại sức khỏe người dân, xuất phát từ vấn đề chuyên môn của lực lượng này. Chúng tôi cho rằng công an xã chỉ nên được lập biên bản sự việc mà không được lấy lời khai.
2. Hai vụ việc xảy ra ở Quảng Ngãi và Thái Bình đều xâm hại đến trẻ em, thanh thiếu niên, trong khi Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em nghiêm cấm chửi mắng, đánh đập hoặc những hành vi làm tổn thương tinh thần đối với trẻ em vi phạm pháp luật. Chúng tôi đề nghị Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc Hội và Ủy ban dân số, gia đình và trẻ em thuộc Chính phủ, lên tiếng giám sát thúc đẩy ngăn chặn tình trạng xâm hại trẻ em, thanh thiếu niên bởi lực lượng công an xã.
nguồn: https://www.facebook.com/ngongoctrai.ngo/posts/675262752614190
---------------
I/ NGƯỜI KIẾN NGHỊ
Chúng tôi, những người có tên trong danh sách dưới đây, ý thức về bổn phận và trách nhiệm của mình trước cộng đồng xã hội, có mong muốn phụng sự công lý và thúc đẩy xây dựng nền tư pháp Việt Nam được trở nên công minh tiến bộ.
II/ CĂN CỨ PHÁP LÝ THỰC HIỆN VIỆC KIẾN NGHỊ
Hiến pháp Việt Nam sửa đổi năm 2013 Điều 28 quy định: 1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. 2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.
Luật luật sư tại Điều 3 quy định về chức năng xã hội của luật sư là góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân.
III/ NỘI DUNG VẤN ĐỀ KIẾN NGHỊ
Mới đây báo chí đưa tin hai vụ việc xảy ra ở Quảng Ngãi và Thái Bình liên quan đến việc làm của công an xã dẫn đến tình trạng bạo hành xâm hại tính mạng sức khỏe của các em thiếu niên học sinh.
Vụ việc ở xã Tịnh Bắc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi xảy ra như sau (theo bài trên báo điện tử Dân trí): Sáng thứ 2 ngày 11/1/2016 công an viên thuộc công an xã Tịnh Bắc đến lớp nơi em nam sinh đang học lớp 9, dẫn giải em này sang trụ sở công an xã lấy lời khai về một vụ trộm cắp tài sản, sau đó em này đã uống thuốc diệt cỏ tự tử và đến ngày 16/1 thì tử vong.
Vụ việc ở xã Tây Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xảy ra như sau (theo bài trên báo điện tử VTC): Chập tối ngày 22/10/2015 công an viên thuộc công an xã Tây Ninh đi tìm và dẫn giải một em học sinh lớp 9 về trụ sở công an xã liên quan đến một vụ trộm cắp tài sản. Hôm sau cháu kêu đau, gia đình đưa đi khám chữa thì được biết cháu đã bị đánh khi ở trụ sở công an xã.
Chúng tôi đặt câu hỏi: Việc công an xã đi tìm nghi phạm rồi triệu tập dẫn giải đến trụ sở công an xã để lấy lời khai, có đúng thẩm quyền của công xã không? Pháp luật có quy định cho công an xã được làm việc này không?
Rà soát các quy định chúng thì thấy tại Điều 28 Thông tư 28/2014/TT-BCA của Bộ công an quy định về công tác điều tra hình sự trong công an nhân dân, có quy định về thẩm quyền xử lý một số việc của công an cấp xã. Theo đó có ba trường hợp:
1. Nếu công an xã bắt được người phạm tội quả tang, hoặc người dân bắt được người phạm tội quả tang dẫn giải đến công an xã, thì công an xã được lấy lời khai nghi phạm.
2. Nếu công an xã được báo về tội phạm đang diễn ra, công an xã đến hiện trường để ngăn chặn và dẫn giải nghi phạm về trụ sở thì công an xã được lấy lời khai.
3. Trường hợp còn lại, công an xã nhận được trình báo của bị hại về các vụ việc thì chỉ tiếp nhận thông tin sự việc, phân loại và chuyển hồ sơ vụ việc đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết mà không được truy tìm dẫn giải nghi phạm để lấy lời khai.
Theo đó công an xã không được dựa vào lời trình bày của bị hại, nghi cho ai đó vi phạm, rồi truy tìm người đó, dẫn giải về trụ sở để lấy lời khai. Đây là việc làm xâm phạm quyền công dân nghiêm trọng, trong khi việc bắt người dẫn giải và lấy lời khai là những hoạt động điều tra bài bản, đòi hỏi phải được thực hiện bởi những đơn vị có chuyên môn nghiệp vụ và đúng thẩm quyền. Đến như cơ quan điều tra bắt người còn phải có quyết định và xin phê chuẩn của viện kiểm sát để được giám sát, tại sao lại để công an xã dễ dàng dẫn giải bắt người để lấy lời khai như vậy?
Qua hai vụ việc ở Quảng Ngãi và Thái Bình và thực tế ở nhiều vùng nông thôn khác, chúng tôi nhận thấy công an xã sau khi tiếp nhận tin báo của bị hại (thường là về các vụ trộm cắp), đã dựa theo nghi vấn của bị hại để truy tìm và dẫn giải nghi phạm (thường là các cháu thiếu niên) về trụ sở công an xã để lấy lời khai. Trong khi pháp luật không cho phép công an xã được làm việc này. Đây là sự lạm quyền có tính phổ biến, chứa bạo lực, xâm hại đến tính mạng sức khỏe của các cháu thiếu niên học sinh.
Việc cho phép công an xã được lấy lời khai (là một hoạt động điều tra làm rõ sự việc) trong khi lại không có quy định phòng ngừa tương ứng như không có người đóng vai trò của người kiểm sát viên, không có quy định ghi âm ghi hình việc lấy lời khai của công an xã, không có quy định cho phép luật sư tham gia, hoặc không có quy định buộc công an xã thông báo và giải thích về quyền và nghĩa vụ cho nghi phạm.
IV/ KIẾN NGHỊ
Nay thực hiện chức năng bổn phận xã hội của mình, chúng tôi kiến nghị như sau:
1. Căn cứ theo Pháp lệnh công an xã năm 2008, tại Điều 21 quy định về trách nhiệm của Bộ Công an về việc chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp của cho công an xã. Chúng tôi đề nghị Bộ công an có chỉ đạo hướng dẫn làm rõ các việc được phép làm của công an xã, và những biện pháp kiểm soát tương ứng, nhằm ngăn ngừa tình trạng lạm quyền xâm hại sức khỏe người dân, xuất phát từ vấn đề chuyên môn của lực lượng này. Chúng tôi cho rằng công an xã chỉ nên được lập biên bản sự việc mà không được lấy lời khai.
2. Hai vụ việc xảy ra ở Quảng Ngãi và Thái Bình đều xâm hại đến trẻ em, thanh thiếu niên, trong khi Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em nghiêm cấm chửi mắng, đánh đập hoặc những hành vi làm tổn thương tinh thần đối với trẻ em vi phạm pháp luật. Chúng tôi đề nghị Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc Hội và Ủy ban dân số, gia đình và trẻ em thuộc Chính phủ, lên tiếng giám sát thúc đẩy ngăn chặn tình trạng xâm hại trẻ em, thanh thiếu niên bởi lực lượng công an xã.
nguồn: https://www.facebook.com/ngongoctrai.ngo/posts/675262752614190
Thứ Năm, 14 tháng 1, 2016
3 vấn đề khi Đảng chính trị hoạt động bằng ngân sách công
Linh Lan (Dịch)
Bê bối hối lộ chính trị[1] xảy ra năm 2012 ngay tại thời điểm các đảng phái ở Anh bắt đầu chạy nước rút cho cuộc vận động tranh cử vào Quốc hội, đánh đúng vào nỗi lo thường trực của các cử tri về việc quyền lực của Quốc hội và Chính phủ Anh bị lợi dụng. Từ đó, vấn đề tài trợ kinh phí cho đảng phái lần nữa trở thành vấn đề tranh luận lớn trong giới chính trị nước Anh. Tờ Third Estate lập luận rằng biện pháp này dẫn đến nguy cơ mất quyền tự chủ của các đảng phái chính trị và đó là nguy cơ hình thành một nền dân chủ đại diện cực đoan.
Vụ bê bối này chẳng phải chuyện gì thú vị hay đáng quan tâm đặc biệt. Những người đứng đầu doanh nghiệp lớn ít khi có nhu cầu để hạ mình ăn tối cùng với Thủ tướng David Cameroon và Phu nhân nhằm có được sức ảnh hưởng ngầm đến các chính sách của Chính phủ. Điều đáng lo ngại hơn chính là vụ việc bị phanh phui này lần nữa đã đẩy mạnh các yêu sách và đề xuất về việc nhà nước chính thức cung cấp kinh phí hoạt động cho các đảng phái chính trị, nhằm giảm bớt “văn hóa tài trợ”. Tuy nhiên, phương án cải cách này hóa ra không giải quyết được nhiều vấn đề mà chỉ tăng cường và thể chế hóa sức mạnh thống trị của các Đảng đang nắm quyền. Và nếu điều đó thật sự diễn ra, những thành phần chủ chốt của các Đảng “được phép” xa rời việc vận động cơ sở và quần chúng, những gì còn lại của tính dân chủ trong đảng phái ở tình trạng bị phá hủy. Trong khi đó, các tổ chức chính trị tự nguyện thực tế trở thành những tổ chức nhà nước bán tự quản.
Vấn đề một – Xem lý tưởng đảng phái cao hơn cộng đồng
Bàn về việc nhà nước cung cấp kinh phí hoạt động cho đảng phái với tờ Independent, nhà báo chính luận nổi tiếng Mary Ann Sieghart đã liên tưởng về sự sụt giảm tầm ảnh hưởng và liên kết giữa Liên Đoàn Lao Động với chính bản thân người lao động, vì thế, tổ chức này trở nên “độc lập” quá mức. Và khi chúng ta nói đến hoạt động của đảng phái chính trị, “độc lập” kiểu này không phải lúc nào cũng là một điểm tốt.
Chúng ta không phủ nhận rằng sự ảnh hưởng chính đảng lớn từ những nhà tài trợ với túi tiền rủng rỉnh cần phải được lên án. Tuy nhiên, thực tế từ Đảng Whig (một trong những đảng chính trị đầu tiên ở Anh – ND), cũng cho thấy rằng cách tiếp cận nhà nước phải có trách nhiệm “nuôi dưỡng” một đảng phái đã và đang đặt lý tưởng của một chính đảng lên trên cả những xung đột xã hội cần hòa giải và lợi ích xã hội cần bảo vệ. Đây sẽ là điều không hợp lý, bởi các tổ chức xã hội dân sự đại diện cho lợi ích của hàng triệu người dân, chỉ có thể tranh đấu và ảnh hưởng đến nội bộ của các đảng phái chính trị. Điều gì xảy ra khi kinh phí tài trợ kinh phí cho các đảng này không bắt nguồn từ những người ủng hộ nó? Hiển nhiên, chúng sẽ làm cho giới “tinh hoa lãnh đạo đảng” trở nên quá “độc lập”. Nguồn tài chính được cung cấp từ ngân sách và sau đó là các quyền lực được chính thức thể chế hóa giúp các lãnh đạo đảng sẽ không còn phụ thuộc, ở bất cứ phương diện nào, vào năng lực tự có của đảng phái đó nhằm kêu gọi và tạo nên sự ủng hộ chính trị lẫn tài chính tích cực và thỏa đáng từ các công dân, tổ chức là thành viên mục tiêu ban đầu. Họ cũng không mặn mòi gì với việc duy trì các mối quan hệ xã hội, công dân và các liên kết chính trị.
Đảng chính trị được tài trợ từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với việc chúng ta coi trọng đảng phái, lý tưởng của đảng phái nào đó hơn cả những công dân đang phải đóng thuế cho nhà nước. Ảnh minh họa.
Vấn đề 2 – Tại sao phải giải cứu những đảng phái hoạt động không hiệu quả và không được ủng hộ
Trong trường hợp tại Anh Quốc, không có gì ngạc nhiên khi Đảng Dân chủ Tự do từ rất lâu đã kêu gọi và rất kỳ vọng vào nguồn tài trợ chính phủ. Ông Nick Clegg – Thủ lĩnh Đảng Dân chủ Tự do, nhận thấy những ảnh hưởng từ “đặc quyền” được trao cho cá nhân, dù họ là những tay ngân hàng đầu tư khét tiếng hay là những nhà lãnh đạo được bầu lên từ hàng triệu người lao động – đều có nguy cơ tham nhũng và thoái hóa như nhau. Tuy nhiên, do chính sự yếu kém trong thiếu hụt cơ sở xã hội và sự ủng hộ vững chắc từ một bộ phận nhân dân, Đảng Dân chủ Tự do luôn quan tâm đến nguồn vốn của nhà nước nhằm “san bằng sân chơi” giữa họ với các chính đảng khác.
Vấn đề 3 – Ngân sách công phải đi kèm với sự kiểm soát
Nguồn cung ngân sách công gần như chắc chắn sẽ làm các Đảng phái chính trị lệ thuộc vào chính quyền. Lý do cho việc BBC bị chỉ trích quá thường xuyên so với các cơ quan báo chí khác là vì khi dòng chảy ngân sách đến đâu, sự giám sát (cả về mặt pháp lý và cộng đồng) đều dõi theo đến đó. Các Đảng phái nhận tiền có nguồn gốc từ người nộp thuế, ở mức độ nào, cũng sẽ được xem như tài sản công cộng.
Chắc chắn rằng người dân sẽ phản đối vô cùng giận dữ nếu họ biết được một Đảng có thiên hướng “cực đoan” được nhúng bàn tay vào tiền ngân sách.
Và chuyện gì sẽ xảy ra khi những nghi ngờ về việc gia đình trị nảy sinh?
Nếu như người đứng đầu của một Đảng lại sử dụng “tiền công” để đưa bạn bè và gia đình ông ta vào vai trò lãnh đạo Đảng?
Liệu nhà nước sau đó có được yêu cầu để can thiệp vào các vấn đề bổ nhiệm nội bộ này không?
Đó là một điều hoàn toàn hợp lý khi dự đoán rằng các cuộc tranh luận chính trị về đảng phái sẽ ngày càng gay gắt một khi toàn xã hội cảm thấy mình có một phần đóng góp chính đáng trong những đảng chính trị đó.
Vậy nên, cho dù văn hóa tài trợ tài chính trong hệ thống chính trị có gặp nhiều vấn đề đến thế nào đi chắc nữa, một điều chắc chắn là nền dân chủ sẽ không được gây dựng lành mạnh hơn bằng việc biến các đảng phái chính trị hiện có thành tổ chức nhà nước bán tự quản. Một giới hạn chi tiêu trong vận động bầu cử chặt chẽ hơn sẽ đảm bảo được phần nào việc các đáng phái không lệ thuộc vào các cá nhân giàu có. Những nhà tài trợ lớn trở nên có vị thế vì họ đã lấp đầy các khoảng trống tài chính của một đảng phái. Nếu các đảng phái của chúng ta không đang quá thiếu hụt tài chính một cách tồi tệ, nếu họ có đủ uy tín và bản lĩnh để kêu gọi và duy trì ra một mức hỗ trợ chính trị nhất định từ phía công chúng, thì họ đã có thể hoàn toàn có khả năng tài chính tự chủ thay vì cầu viện đến những đại gia, vốn hoàn toàn có khả năng gây ảnh hưởng đến thanh danh của họ trong xã hội. Khe hở của nền dân chủ này cần được xác địnhm nhưng vấn đề sẽ chỉ theo chiều hướng xấu đi, chứ không phải tốt hơn nếu tìm đến những khoản trợ cấp từ nhà nước.
Chú giải của tác giả
[1] Vụ bê bối hối lộ chính trị (Cash for access scandal) năm 2012 được Tờ Daily Telegraph và Kênh truyền hình Channel 4 phanh phui về việc hai chính trị gia gạo cội của nước Anh là Jack Straw (Đảng Lao Động) và Sir Malcolm Rifkind (Đảng Bảo Thủ) đã hứa hẹn giúp đỡ đối tác gặp những mối quan hệ cần thiết và đổi lại bằng những khoản tiến lớn. Đặc biệt là ông Rifkind thời điểm đó đang phụ trách Ủy ban an ninh và tình báo của Quốc hội lại nhận giúp các công ty Trung Quốc gặp tất cả nhân vật quan trọng trong hệ thống an ninh hạt nhân thế giới với số tiền nhận được là 5000 bảng mỗi ngày.
Nguồn bài viết
Why state-funded political parties would be a disaster for our democracy
Linh Lan (Dịch)
Bê bối hối lộ chính trị[1] xảy ra năm 2012 ngay tại thời điểm các đảng phái ở Anh bắt đầu chạy nước rút cho cuộc vận động tranh cử vào Quốc hội, đánh đúng vào nỗi lo thường trực của các cử tri về việc quyền lực của Quốc hội và Chính phủ Anh bị lợi dụng. Từ đó, vấn đề tài trợ kinh phí cho đảng phái lần nữa trở thành vấn đề tranh luận lớn trong giới chính trị nước Anh. Tờ Third Estate lập luận rằng biện pháp này dẫn đến nguy cơ mất quyền tự chủ của các đảng phái chính trị và đó là nguy cơ hình thành một nền dân chủ đại diện cực đoan.
Vụ bê bối này chẳng phải chuyện gì thú vị hay đáng quan tâm đặc biệt. Những người đứng đầu doanh nghiệp lớn ít khi có nhu cầu để hạ mình ăn tối cùng với Thủ tướng David Cameroon và Phu nhân nhằm có được sức ảnh hưởng ngầm đến các chính sách của Chính phủ. Điều đáng lo ngại hơn chính là vụ việc bị phanh phui này lần nữa đã đẩy mạnh các yêu sách và đề xuất về việc nhà nước chính thức cung cấp kinh phí hoạt động cho các đảng phái chính trị, nhằm giảm bớt “văn hóa tài trợ”. Tuy nhiên, phương án cải cách này hóa ra không giải quyết được nhiều vấn đề mà chỉ tăng cường và thể chế hóa sức mạnh thống trị của các Đảng đang nắm quyền. Và nếu điều đó thật sự diễn ra, những thành phần chủ chốt của các Đảng “được phép” xa rời việc vận động cơ sở và quần chúng, những gì còn lại của tính dân chủ trong đảng phái ở tình trạng bị phá hủy. Trong khi đó, các tổ chức chính trị tự nguyện thực tế trở thành những tổ chức nhà nước bán tự quản.
Vấn đề một – Xem lý tưởng đảng phái cao hơn cộng đồng
Bàn về việc nhà nước cung cấp kinh phí hoạt động cho đảng phái với tờ Independent, nhà báo chính luận nổi tiếng Mary Ann Sieghart đã liên tưởng về sự sụt giảm tầm ảnh hưởng và liên kết giữa Liên Đoàn Lao Động với chính bản thân người lao động, vì thế, tổ chức này trở nên “độc lập” quá mức. Và khi chúng ta nói đến hoạt động của đảng phái chính trị, “độc lập” kiểu này không phải lúc nào cũng là một điểm tốt.
Chúng ta không phủ nhận rằng sự ảnh hưởng chính đảng lớn từ những nhà tài trợ với túi tiền rủng rỉnh cần phải được lên án. Tuy nhiên, thực tế từ Đảng Whig (một trong những đảng chính trị đầu tiên ở Anh – ND), cũng cho thấy rằng cách tiếp cận nhà nước phải có trách nhiệm “nuôi dưỡng” một đảng phái đã và đang đặt lý tưởng của một chính đảng lên trên cả những xung đột xã hội cần hòa giải và lợi ích xã hội cần bảo vệ. Đây sẽ là điều không hợp lý, bởi các tổ chức xã hội dân sự đại diện cho lợi ích của hàng triệu người dân, chỉ có thể tranh đấu và ảnh hưởng đến nội bộ của các đảng phái chính trị. Điều gì xảy ra khi kinh phí tài trợ kinh phí cho các đảng này không bắt nguồn từ những người ủng hộ nó? Hiển nhiên, chúng sẽ làm cho giới “tinh hoa lãnh đạo đảng” trở nên quá “độc lập”. Nguồn tài chính được cung cấp từ ngân sách và sau đó là các quyền lực được chính thức thể chế hóa giúp các lãnh đạo đảng sẽ không còn phụ thuộc, ở bất cứ phương diện nào, vào năng lực tự có của đảng phái đó nhằm kêu gọi và tạo nên sự ủng hộ chính trị lẫn tài chính tích cực và thỏa đáng từ các công dân, tổ chức là thành viên mục tiêu ban đầu. Họ cũng không mặn mòi gì với việc duy trì các mối quan hệ xã hội, công dân và các liên kết chính trị.
Đảng chính trị được tài trợ từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với việc chúng ta coi trọng đảng phái, lý tưởng của đảng phái nào đó hơn cả những công dân đang phải đóng thuế cho nhà nước. Ảnh minh họa.
Vấn đề 2 – Tại sao phải giải cứu những đảng phái hoạt động không hiệu quả và không được ủng hộ
Trong trường hợp tại Anh Quốc, không có gì ngạc nhiên khi Đảng Dân chủ Tự do từ rất lâu đã kêu gọi và rất kỳ vọng vào nguồn tài trợ chính phủ. Ông Nick Clegg – Thủ lĩnh Đảng Dân chủ Tự do, nhận thấy những ảnh hưởng từ “đặc quyền” được trao cho cá nhân, dù họ là những tay ngân hàng đầu tư khét tiếng hay là những nhà lãnh đạo được bầu lên từ hàng triệu người lao động – đều có nguy cơ tham nhũng và thoái hóa như nhau. Tuy nhiên, do chính sự yếu kém trong thiếu hụt cơ sở xã hội và sự ủng hộ vững chắc từ một bộ phận nhân dân, Đảng Dân chủ Tự do luôn quan tâm đến nguồn vốn của nhà nước nhằm “san bằng sân chơi” giữa họ với các chính đảng khác.
Vấn đề 3 – Ngân sách công phải đi kèm với sự kiểm soát
Nguồn cung ngân sách công gần như chắc chắn sẽ làm các Đảng phái chính trị lệ thuộc vào chính quyền. Lý do cho việc BBC bị chỉ trích quá thường xuyên so với các cơ quan báo chí khác là vì khi dòng chảy ngân sách đến đâu, sự giám sát (cả về mặt pháp lý và cộng đồng) đều dõi theo đến đó. Các Đảng phái nhận tiền có nguồn gốc từ người nộp thuế, ở mức độ nào, cũng sẽ được xem như tài sản công cộng.
Chắc chắn rằng người dân sẽ phản đối vô cùng giận dữ nếu họ biết được một Đảng có thiên hướng “cực đoan” được nhúng bàn tay vào tiền ngân sách.
Và chuyện gì sẽ xảy ra khi những nghi ngờ về việc gia đình trị nảy sinh?
Nếu như người đứng đầu của một Đảng lại sử dụng “tiền công” để đưa bạn bè và gia đình ông ta vào vai trò lãnh đạo Đảng?
Liệu nhà nước sau đó có được yêu cầu để can thiệp vào các vấn đề bổ nhiệm nội bộ này không?
Đó là một điều hoàn toàn hợp lý khi dự đoán rằng các cuộc tranh luận chính trị về đảng phái sẽ ngày càng gay gắt một khi toàn xã hội cảm thấy mình có một phần đóng góp chính đáng trong những đảng chính trị đó.
Vậy nên, cho dù văn hóa tài trợ tài chính trong hệ thống chính trị có gặp nhiều vấn đề đến thế nào đi chắc nữa, một điều chắc chắn là nền dân chủ sẽ không được gây dựng lành mạnh hơn bằng việc biến các đảng phái chính trị hiện có thành tổ chức nhà nước bán tự quản. Một giới hạn chi tiêu trong vận động bầu cử chặt chẽ hơn sẽ đảm bảo được phần nào việc các đáng phái không lệ thuộc vào các cá nhân giàu có. Những nhà tài trợ lớn trở nên có vị thế vì họ đã lấp đầy các khoảng trống tài chính của một đảng phái. Nếu các đảng phái của chúng ta không đang quá thiếu hụt tài chính một cách tồi tệ, nếu họ có đủ uy tín và bản lĩnh để kêu gọi và duy trì ra một mức hỗ trợ chính trị nhất định từ phía công chúng, thì họ đã có thể hoàn toàn có khả năng tài chính tự chủ thay vì cầu viện đến những đại gia, vốn hoàn toàn có khả năng gây ảnh hưởng đến thanh danh của họ trong xã hội. Khe hở của nền dân chủ này cần được xác địnhm nhưng vấn đề sẽ chỉ theo chiều hướng xấu đi, chứ không phải tốt hơn nếu tìm đến những khoản trợ cấp từ nhà nước.
Chú giải của tác giả
[1] Vụ bê bối hối lộ chính trị (Cash for access scandal) năm 2012 được Tờ Daily Telegraph và Kênh truyền hình Channel 4 phanh phui về việc hai chính trị gia gạo cội của nước Anh là Jack Straw (Đảng Lao Động) và Sir Malcolm Rifkind (Đảng Bảo Thủ) đã hứa hẹn giúp đỡ đối tác gặp những mối quan hệ cần thiết và đổi lại bằng những khoản tiến lớn. Đặc biệt là ông Rifkind thời điểm đó đang phụ trách Ủy ban an ninh và tình báo của Quốc hội lại nhận giúp các công ty Trung Quốc gặp tất cả nhân vật quan trọng trong hệ thống an ninh hạt nhân thế giới với số tiền nhận được là 5000 bảng mỗi ngày.
Nguồn bài viết
Why state-funded political parties would be a disaster for our democracy
Bê bối hối lộ chính trị[1] xảy ra năm 2012 ngay tại thời điểm các đảng phái ở Anh bắt đầu chạy nước rút cho cuộc vận động tranh cử vào Quốc hội, đánh đúng vào nỗi lo thường trực của các cử tri về việc quyền lực của Quốc hội và Chính phủ Anh bị lợi dụng. Từ đó, vấn đề tài trợ kinh phí cho đảng phái lần nữa trở thành vấn đề tranh luận lớn trong giới chính trị nước Anh. Tờ Third Estate lập luận rằng biện pháp này dẫn đến nguy cơ mất quyền tự chủ của các đảng phái chính trị và đó là nguy cơ hình thành một nền dân chủ đại diện cực đoan.
Vụ bê bối này chẳng phải chuyện gì thú vị hay đáng quan tâm đặc biệt. Những người đứng đầu doanh nghiệp lớn ít khi có nhu cầu để hạ mình ăn tối cùng với Thủ tướng David Cameroon và Phu nhân nhằm có được sức ảnh hưởng ngầm đến các chính sách của Chính phủ. Điều đáng lo ngại hơn chính là vụ việc bị phanh phui này lần nữa đã đẩy mạnh các yêu sách và đề xuất về việc nhà nước chính thức cung cấp kinh phí hoạt động cho các đảng phái chính trị, nhằm giảm bớt “văn hóa tài trợ”. Tuy nhiên, phương án cải cách này hóa ra không giải quyết được nhiều vấn đề mà chỉ tăng cường và thể chế hóa sức mạnh thống trị của các Đảng đang nắm quyền. Và nếu điều đó thật sự diễn ra, những thành phần chủ chốt của các Đảng “được phép” xa rời việc vận động cơ sở và quần chúng, những gì còn lại của tính dân chủ trong đảng phái ở tình trạng bị phá hủy. Trong khi đó, các tổ chức chính trị tự nguyện thực tế trở thành những tổ chức nhà nước bán tự quản.
Vấn đề một – Xem lý tưởng đảng phái cao hơn cộng đồng
Bàn về việc nhà nước cung cấp kinh phí hoạt động cho đảng phái với tờ Independent, nhà báo chính luận nổi tiếng Mary Ann Sieghart đã liên tưởng về sự sụt giảm tầm ảnh hưởng và liên kết giữa Liên Đoàn Lao Động với chính bản thân người lao động, vì thế, tổ chức này trở nên “độc lập” quá mức. Và khi chúng ta nói đến hoạt động của đảng phái chính trị, “độc lập” kiểu này không phải lúc nào cũng là một điểm tốt.
Chúng ta không phủ nhận rằng sự ảnh hưởng chính đảng lớn từ những nhà tài trợ với túi tiền rủng rỉnh cần phải được lên án. Tuy nhiên, thực tế từ Đảng Whig (một trong những đảng chính trị đầu tiên ở Anh – ND), cũng cho thấy rằng cách tiếp cận nhà nước phải có trách nhiệm “nuôi dưỡng” một đảng phái đã và đang đặt lý tưởng của một chính đảng lên trên cả những xung đột xã hội cần hòa giải và lợi ích xã hội cần bảo vệ. Đây sẽ là điều không hợp lý, bởi các tổ chức xã hội dân sự đại diện cho lợi ích của hàng triệu người dân, chỉ có thể tranh đấu và ảnh hưởng đến nội bộ của các đảng phái chính trị. Điều gì xảy ra khi kinh phí tài trợ kinh phí cho các đảng này không bắt nguồn từ những người ủng hộ nó? Hiển nhiên, chúng sẽ làm cho giới “tinh hoa lãnh đạo đảng” trở nên quá “độc lập”. Nguồn tài chính được cung cấp từ ngân sách và sau đó là các quyền lực được chính thức thể chế hóa giúp các lãnh đạo đảng sẽ không còn phụ thuộc, ở bất cứ phương diện nào, vào năng lực tự có của đảng phái đó nhằm kêu gọi và tạo nên sự ủng hộ chính trị lẫn tài chính tích cực và thỏa đáng từ các công dân, tổ chức là thành viên mục tiêu ban đầu. Họ cũng không mặn mòi gì với việc duy trì các mối quan hệ xã hội, công dân và các liên kết chính trị.
Đảng chính trị được tài trợ từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với việc chúng ta coi trọng đảng phái, lý tưởng của đảng phái nào đó hơn cả những công dân đang phải đóng thuế cho nhà nước. Ảnh minh họa.
Vấn đề 2 – Tại sao phải giải cứu những đảng phái hoạt động không hiệu quả và không được ủng hộ
Trong trường hợp tại Anh Quốc, không có gì ngạc nhiên khi Đảng Dân chủ Tự do từ rất lâu đã kêu gọi và rất kỳ vọng vào nguồn tài trợ chính phủ. Ông Nick Clegg – Thủ lĩnh Đảng Dân chủ Tự do, nhận thấy những ảnh hưởng từ “đặc quyền” được trao cho cá nhân, dù họ là những tay ngân hàng đầu tư khét tiếng hay là những nhà lãnh đạo được bầu lên từ hàng triệu người lao động – đều có nguy cơ tham nhũng và thoái hóa như nhau. Tuy nhiên, do chính sự yếu kém trong thiếu hụt cơ sở xã hội và sự ủng hộ vững chắc từ một bộ phận nhân dân, Đảng Dân chủ Tự do luôn quan tâm đến nguồn vốn của nhà nước nhằm “san bằng sân chơi” giữa họ với các chính đảng khác.
Vấn đề 3 – Ngân sách công phải đi kèm với sự kiểm soát
Nguồn cung ngân sách công gần như chắc chắn sẽ làm các Đảng phái chính trị lệ thuộc vào chính quyền. Lý do cho việc BBC bị chỉ trích quá thường xuyên so với các cơ quan báo chí khác là vì khi dòng chảy ngân sách đến đâu, sự giám sát (cả về mặt pháp lý và cộng đồng) đều dõi theo đến đó. Các Đảng phái nhận tiền có nguồn gốc từ người nộp thuế, ở mức độ nào, cũng sẽ được xem như tài sản công cộng.
Chắc chắn rằng người dân sẽ phản đối vô cùng giận dữ nếu họ biết được một Đảng có thiên hướng “cực đoan” được nhúng bàn tay vào tiền ngân sách.
Và chuyện gì sẽ xảy ra khi những nghi ngờ về việc gia đình trị nảy sinh?
Nếu như người đứng đầu của một Đảng lại sử dụng “tiền công” để đưa bạn bè và gia đình ông ta vào vai trò lãnh đạo Đảng?
Liệu nhà nước sau đó có được yêu cầu để can thiệp vào các vấn đề bổ nhiệm nội bộ này không?
Đó là một điều hoàn toàn hợp lý khi dự đoán rằng các cuộc tranh luận chính trị về đảng phái sẽ ngày càng gay gắt một khi toàn xã hội cảm thấy mình có một phần đóng góp chính đáng trong những đảng chính trị đó.
Vậy nên, cho dù văn hóa tài trợ tài chính trong hệ thống chính trị có gặp nhiều vấn đề đến thế nào đi chắc nữa, một điều chắc chắn là nền dân chủ sẽ không được gây dựng lành mạnh hơn bằng việc biến các đảng phái chính trị hiện có thành tổ chức nhà nước bán tự quản. Một giới hạn chi tiêu trong vận động bầu cử chặt chẽ hơn sẽ đảm bảo được phần nào việc các đáng phái không lệ thuộc vào các cá nhân giàu có. Những nhà tài trợ lớn trở nên có vị thế vì họ đã lấp đầy các khoảng trống tài chính của một đảng phái. Nếu các đảng phái của chúng ta không đang quá thiếu hụt tài chính một cách tồi tệ, nếu họ có đủ uy tín và bản lĩnh để kêu gọi và duy trì ra một mức hỗ trợ chính trị nhất định từ phía công chúng, thì họ đã có thể hoàn toàn có khả năng tài chính tự chủ thay vì cầu viện đến những đại gia, vốn hoàn toàn có khả năng gây ảnh hưởng đến thanh danh của họ trong xã hội. Khe hở của nền dân chủ này cần được xác địnhm nhưng vấn đề sẽ chỉ theo chiều hướng xấu đi, chứ không phải tốt hơn nếu tìm đến những khoản trợ cấp từ nhà nước.
Chú giải của tác giả
[1] Vụ bê bối hối lộ chính trị (Cash for access scandal) năm 2012 được Tờ Daily Telegraph và Kênh truyền hình Channel 4 phanh phui về việc hai chính trị gia gạo cội của nước Anh là Jack Straw (Đảng Lao Động) và Sir Malcolm Rifkind (Đảng Bảo Thủ) đã hứa hẹn giúp đỡ đối tác gặp những mối quan hệ cần thiết và đổi lại bằng những khoản tiến lớn. Đặc biệt là ông Rifkind thời điểm đó đang phụ trách Ủy ban an ninh và tình báo của Quốc hội lại nhận giúp các công ty Trung Quốc gặp tất cả nhân vật quan trọng trong hệ thống an ninh hạt nhân thế giới với số tiền nhận được là 5000 bảng mỗi ngày.
Nguồn bài viết
Why state-funded political parties would be a disaster for our democracy
Linh Lan (Dịch)
Bê bối hối lộ chính trị[1] xảy ra năm 2012 ngay tại thời điểm các đảng phái ở Anh bắt đầu chạy nước rút cho cuộc vận động tranh cử vào Quốc hội, đánh đúng vào nỗi lo thường trực của các cử tri về việc quyền lực của Quốc hội và Chính phủ Anh bị lợi dụng. Từ đó, vấn đề tài trợ kinh phí cho đảng phái lần nữa trở thành vấn đề tranh luận lớn trong giới chính trị nước Anh. Tờ Third Estate lập luận rằng biện pháp này dẫn đến nguy cơ mất quyền tự chủ của các đảng phái chính trị và đó là nguy cơ hình thành một nền dân chủ đại diện cực đoan.
Vụ bê bối này chẳng phải chuyện gì thú vị hay đáng quan tâm đặc biệt. Những người đứng đầu doanh nghiệp lớn ít khi có nhu cầu để hạ mình ăn tối cùng với Thủ tướng David Cameroon và Phu nhân nhằm có được sức ảnh hưởng ngầm đến các chính sách của Chính phủ. Điều đáng lo ngại hơn chính là vụ việc bị phanh phui này lần nữa đã đẩy mạnh các yêu sách và đề xuất về việc nhà nước chính thức cung cấp kinh phí hoạt động cho các đảng phái chính trị, nhằm giảm bớt “văn hóa tài trợ”. Tuy nhiên, phương án cải cách này hóa ra không giải quyết được nhiều vấn đề mà chỉ tăng cường và thể chế hóa sức mạnh thống trị của các Đảng đang nắm quyền. Và nếu điều đó thật sự diễn ra, những thành phần chủ chốt của các Đảng “được phép” xa rời việc vận động cơ sở và quần chúng, những gì còn lại của tính dân chủ trong đảng phái ở tình trạng bị phá hủy. Trong khi đó, các tổ chức chính trị tự nguyện thực tế trở thành những tổ chức nhà nước bán tự quản.
Vấn đề một – Xem lý tưởng đảng phái cao hơn cộng đồng
Bàn về việc nhà nước cung cấp kinh phí hoạt động cho đảng phái với tờ Independent, nhà báo chính luận nổi tiếng Mary Ann Sieghart đã liên tưởng về sự sụt giảm tầm ảnh hưởng và liên kết giữa Liên Đoàn Lao Động với chính bản thân người lao động, vì thế, tổ chức này trở nên “độc lập” quá mức. Và khi chúng ta nói đến hoạt động của đảng phái chính trị, “độc lập” kiểu này không phải lúc nào cũng là một điểm tốt.
Chúng ta không phủ nhận rằng sự ảnh hưởng chính đảng lớn từ những nhà tài trợ với túi tiền rủng rỉnh cần phải được lên án. Tuy nhiên, thực tế từ Đảng Whig (một trong những đảng chính trị đầu tiên ở Anh – ND), cũng cho thấy rằng cách tiếp cận nhà nước phải có trách nhiệm “nuôi dưỡng” một đảng phái đã và đang đặt lý tưởng của một chính đảng lên trên cả những xung đột xã hội cần hòa giải và lợi ích xã hội cần bảo vệ. Đây sẽ là điều không hợp lý, bởi các tổ chức xã hội dân sự đại diện cho lợi ích của hàng triệu người dân, chỉ có thể tranh đấu và ảnh hưởng đến nội bộ của các đảng phái chính trị. Điều gì xảy ra khi kinh phí tài trợ kinh phí cho các đảng này không bắt nguồn từ những người ủng hộ nó? Hiển nhiên, chúng sẽ làm cho giới “tinh hoa lãnh đạo đảng” trở nên quá “độc lập”. Nguồn tài chính được cung cấp từ ngân sách và sau đó là các quyền lực được chính thức thể chế hóa giúp các lãnh đạo đảng sẽ không còn phụ thuộc, ở bất cứ phương diện nào, vào năng lực tự có của đảng phái đó nhằm kêu gọi và tạo nên sự ủng hộ chính trị lẫn tài chính tích cực và thỏa đáng từ các công dân, tổ chức là thành viên mục tiêu ban đầu. Họ cũng không mặn mòi gì với việc duy trì các mối quan hệ xã hội, công dân và các liên kết chính trị.
Đảng chính trị được tài trợ từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với việc chúng ta coi trọng đảng phái, lý tưởng của đảng phái nào đó hơn cả những công dân đang phải đóng thuế cho nhà nước. Ảnh minh họa.
Vấn đề 2 – Tại sao phải giải cứu những đảng phái hoạt động không hiệu quả và không được ủng hộ
Trong trường hợp tại Anh Quốc, không có gì ngạc nhiên khi Đảng Dân chủ Tự do từ rất lâu đã kêu gọi và rất kỳ vọng vào nguồn tài trợ chính phủ. Ông Nick Clegg – Thủ lĩnh Đảng Dân chủ Tự do, nhận thấy những ảnh hưởng từ “đặc quyền” được trao cho cá nhân, dù họ là những tay ngân hàng đầu tư khét tiếng hay là những nhà lãnh đạo được bầu lên từ hàng triệu người lao động – đều có nguy cơ tham nhũng và thoái hóa như nhau. Tuy nhiên, do chính sự yếu kém trong thiếu hụt cơ sở xã hội và sự ủng hộ vững chắc từ một bộ phận nhân dân, Đảng Dân chủ Tự do luôn quan tâm đến nguồn vốn của nhà nước nhằm “san bằng sân chơi” giữa họ với các chính đảng khác.
Vấn đề 3 – Ngân sách công phải đi kèm với sự kiểm soát
Nguồn cung ngân sách công gần như chắc chắn sẽ làm các Đảng phái chính trị lệ thuộc vào chính quyền. Lý do cho việc BBC bị chỉ trích quá thường xuyên so với các cơ quan báo chí khác là vì khi dòng chảy ngân sách đến đâu, sự giám sát (cả về mặt pháp lý và cộng đồng) đều dõi theo đến đó. Các Đảng phái nhận tiền có nguồn gốc từ người nộp thuế, ở mức độ nào, cũng sẽ được xem như tài sản công cộng.
Chắc chắn rằng người dân sẽ phản đối vô cùng giận dữ nếu họ biết được một Đảng có thiên hướng “cực đoan” được nhúng bàn tay vào tiền ngân sách.
Và chuyện gì sẽ xảy ra khi những nghi ngờ về việc gia đình trị nảy sinh?
Nếu như người đứng đầu của một Đảng lại sử dụng “tiền công” để đưa bạn bè và gia đình ông ta vào vai trò lãnh đạo Đảng?
Liệu nhà nước sau đó có được yêu cầu để can thiệp vào các vấn đề bổ nhiệm nội bộ này không?
Đó là một điều hoàn toàn hợp lý khi dự đoán rằng các cuộc tranh luận chính trị về đảng phái sẽ ngày càng gay gắt một khi toàn xã hội cảm thấy mình có một phần đóng góp chính đáng trong những đảng chính trị đó.
Vậy nên, cho dù văn hóa tài trợ tài chính trong hệ thống chính trị có gặp nhiều vấn đề đến thế nào đi chắc nữa, một điều chắc chắn là nền dân chủ sẽ không được gây dựng lành mạnh hơn bằng việc biến các đảng phái chính trị hiện có thành tổ chức nhà nước bán tự quản. Một giới hạn chi tiêu trong vận động bầu cử chặt chẽ hơn sẽ đảm bảo được phần nào việc các đáng phái không lệ thuộc vào các cá nhân giàu có. Những nhà tài trợ lớn trở nên có vị thế vì họ đã lấp đầy các khoảng trống tài chính của một đảng phái. Nếu các đảng phái của chúng ta không đang quá thiếu hụt tài chính một cách tồi tệ, nếu họ có đủ uy tín và bản lĩnh để kêu gọi và duy trì ra một mức hỗ trợ chính trị nhất định từ phía công chúng, thì họ đã có thể hoàn toàn có khả năng tài chính tự chủ thay vì cầu viện đến những đại gia, vốn hoàn toàn có khả năng gây ảnh hưởng đến thanh danh của họ trong xã hội. Khe hở của nền dân chủ này cần được xác địnhm nhưng vấn đề sẽ chỉ theo chiều hướng xấu đi, chứ không phải tốt hơn nếu tìm đến những khoản trợ cấp từ nhà nước.
Chú giải của tác giả
[1] Vụ bê bối hối lộ chính trị (Cash for access scandal) năm 2012 được Tờ Daily Telegraph và Kênh truyền hình Channel 4 phanh phui về việc hai chính trị gia gạo cội của nước Anh là Jack Straw (Đảng Lao Động) và Sir Malcolm Rifkind (Đảng Bảo Thủ) đã hứa hẹn giúp đỡ đối tác gặp những mối quan hệ cần thiết và đổi lại bằng những khoản tiến lớn. Đặc biệt là ông Rifkind thời điểm đó đang phụ trách Ủy ban an ninh và tình báo của Quốc hội lại nhận giúp các công ty Trung Quốc gặp tất cả nhân vật quan trọng trong hệ thống an ninh hạt nhân thế giới với số tiền nhận được là 5000 bảng mỗi ngày.
Nguồn bài viết
Why state-funded political parties would be a disaster for our democracy
http://luatkhoa.org/2016/01/3-van-de-khi-dang-phai-chinh-tri-hoat-dong-bang-ngan-sach-cong/
Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2016
[Tại sao chính phủ không nên in thêm tiền?]
Giới thiệu
Việt Nam đang trên bờ vỡ nợ, nghĩa là không có đủ tiền để trả nợ. Chính phủ có 4 giải pháp: 1) tăng thuế phí 2) vay thêm 3) cắt giảm ngân sách và 4) in tiền.
Cách in tiền là phương pháp thông dụng nhất, vì đó là cách âm thầm nhất. Chính phủ Việt Nam hiện tại đang in tiền để trả cho ngân sách, kết quả là giá tiêu dùng ở Việt Nam đang tăng rất cao, ước tính thật sự là trên 10%. Điều này đồng nghĩa với việc người dân phải đi làm nhiều hơn để trang trải cho cuộc sống. Họ thường đổ lỗi cho việc tăng giá lên lòng tham của người kinh doanh, nhưng ít ai biết rằng họ đang bị chính phủ ăn cắp mồ hôi nước mắt của mình qua cách in tiền (lạm phát).
Sau đây là bài viết giải thích vì sao chính phủ không nên in thêm tiền.
---------------
Vì sao lại có tiền?
Chính phủ có thể in tiền, vậy thì tại sao nó không in thêm ra và đem đi cho? Tất nhiên, điều này sẽ giảm sự nghèo đói và kích thích nền kinh tế?
Các nền kinh tế hiện đại sử dụng tiền nhiều đến độ nhiều khi chúng ta đã quên đi tiền là gì. Vậy thì hãy trở lại, suy ngẫm và tìm hiểu tiền được phát minh ra để làm gì.
Trước sự phát minh của đồng tiền, con người đã trao đổi những thứ họ sản xuất để lấy những thứ người khác sản xuất. Chúng ta gọi đó là ''cuộc trao đổi" trực tiếp, một món hàng cho một món hàng. Phương pháp này rất bất tiện, bởi vì bạn phải tìm một người nào đó không chỉ có những thứ bạn muốn mà còn phải muốn những thứ bạn có. Các nhà kinh tế học gọi vấn đề này là ''vấn đề của sự trùng hợp nhu cầu.''
Một vấn đề khác nữa với phương pháp trao đổi trực tiếp là nó trở nên rất khó để tích lũy (tiết kiệm) những thứ bạn đã sản xuất một cách lâu dài. Người Hang Động sẽ không thể nào tích lũy thu nhập của mình để trả tiền học phí đại học được. Không chỉ vì đại học thời đó không tồn tại, mà vì bốn năm học phí có giá đến 40,000 con gà. Khi các con gà thay phiên đẻ trứng, anh ta sẽ để nó vào chuồng, tích lũy cho sau này. Thời gian dần trôi qua, anh ta càng để nhiều trứng gà và con gà vào chuồng. Nhưng thời gian dần trôi qua thì những con gà đó dần chết đi.
Người Hang Động đó không thể nào tiết kiệm đủ thu nhập để trả học phí đại học được bởi vì mấy con gà của anh ta sống không đủ lâu để cho phép anh ta tích lũy đủ số lượng. Các nhà kinh tế học gọi trường hợp này là ''vấn đề giữ gìn giá trị."
Tiền giải quyết hai vấn đề: 1) ''vấn đề của sự trùng hợp nhu cầu.'' và 2) ''vấn đề giữ gìn giá trị."
---------------
Tiền là gì?
Tiền đơn giản chỉ là một tờ giấy ghi nợ "tôi nợ bạn'' mà con người có thể giữ và dùng để trao đổi với nhau một cách dễ dàng hơn so với phương pháp trao đổi hàng hóa trực tiếp với nhau. Với tiền, bất cứ một người nào cũng có thể trao đổi với một người khác, mà không cần biết người đó sản xuất cái gì. Vì sao? Bởi vì bây giờ người A phải muốn những gì người B có, nhưng người B không cần phải muốn những gì người A có. Anh ta có thể dùng tiền để mua những thứ anh ta muốn từ người khác, người C. Cả hai người đều có thể giao dịch làm ăn với nhau mà không bị giới hạn hoặc rào cản.
Tiền cũng giải quyết vấn đề giữ gìn giá trị. Người Hang Động kia có thể nuôi và bán những con gà và tích lũy thu nhập của anh ta, bây giờ là tiền, ở dưới một cục đá, hoặc ở đâu đó an toàn. Anh ta bây giờ có thể tiếp tục làm như vậy bao lâu cũng được bởi vì số tiền đó sẽ không bị mất đi hoặc chết như mấy con gà kia. Khi anh ta đã tích lũy đủ tiền, anh ta có thể mua những thứ đắc tiền.
---------------
Tiền không phải là sự thịnh vượng
Bây giờ chúng ta đã biết và nhớ nguyên nhân vì sao chúng ta lại phát minh ra tiền, thì bây giờ chúng ta có thể hiểu rõ vì sao in tiền không làm chúng ta giàu có hơn. Tiền có giá trị vì con người sẽ đưa bạn những hàng hóa và dịch vụ để đổi lấy tiền. Giá trị của tiền đến từ giá trị của hàng hóa và dịch vụ.
Việc in thêm tiền không sản xuất ra thêm hàng hóa và dịch vụ. Nói đơn giản, nó chỉ lan tràn giá trị của hàng hóa và dịch vụ xung quanh số lượng tiền tồn tại trong nền kinh tế. Kết quả là hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng giá, vì số lượng tiền trong nền kinh tế tăng, còn số lượng hàng hóa thì không.
Trường hợp này, khi tất cả hàng hóa va dịch vụ tăng giá, chúng ta gọi là lạm phát. Nghĩa là mức giá bình quân là số lượng tiền chia cho số lượng hàng hóa và dịch vụ.
---------------
Mức giá bình quân = (số lượng tiền) / (số lượng hàng hóa và dịch vụ)
Kết quả của việc tăng số lượng tiền là giá hàng hóa sẽ tăng theo. Nếu tăng số lượng tiền lên gấp đôi, thì giá hàng hóa cũng tăng lên gấp đôi. Nếu mọi người có gấp đôi số tiền nhưng mọi thứ tăng giá gấp đôi, thì mọi người không giàu có hơn. Con người trở nên khá giả hơn bởi vì sự thịnh vượng không đến từ tiền, mà đến từ hàng hóa và dịch vụ tiền có thể trao đổi để lấy.
Tiền không phải là sự thịnh vượng, hàng hóa và dịch vụ mới là sự thịnh vượng.
---------------
Tác giả: Antony Davies, Why Not Print More Money?, Learn Liberty
nguồn: https://www.facebook.com/video.php?v=752687211531462
Dịch giả: Ku Búa #cafekubua
[Trang trại ông Jones: nô lệ trong dân chủ]
Ông Jones sở hữu một trang trại bông gòn và rất nhiều nô lệ. Một ngày nọ ông ta nói chuyện với một chủ trang trại kế bên trang trại ông ta và ông Jones than thở về tình hình hiện tại rất khó khăn. Ông ta bắt buộc những người nô lệ phải làm việc nhiều hơn và có vấn đề với vài người không chịu nghe lời hoặc tìm cách bỏ trốn. Chủ trang trại kia nói ông ta biết một người có thể giúp ông Jones.
---------------
Ngày Thứ Nhất – Nô lệ và dân chủ
Một ngày nọ ông Jones gọi tất cả những người nô lệ lại để một người tên là ông Smith có thể nói chuyện với họ. Trước khi nói chuyện ông Smith nói nhỏ với ông Jones rằng
"Dù tôi nói gì đi nữa cũng đừng lên tiếng hoặc phản đối, tôi hứa với ông rằng sẽ không còn vấn đề gì với những người nô lệ nữa."
"Tôi tên là ông Smith", ông ta nói với các người nô lệ.
"Và hôm nay có thể sẽ là một trong những ngày hạnh phục nhất của mọi người. Kể từ ngày hôm nay, mọi người sẽ không còn là nô lệ nữa, mà sẽ là những người tự do."
Ông Jones vô cùng kinh ngạc, ông ta bắt đầu bước lên phía trước nhưng ông Smith đã ra dấu hiệu cho ông ta im lặng. Ông ta chỉ làm vậy vì chủ trang trại kia đã có rất nhiều lời khen về kỹ năng của ông Smith.
"Mọi người không còn là tài sản của ông Jones nữa". Ông Smith nói tiếp.
"Mọi người đã tự do. Mọi người không phải làm việc để phục vụ ông Jones nữa.''
''Bây giờ mọi người sẽ làm việc cho chính bản thân".
Bây giờ các nô lệ đang xì xào và nhìn nhau. Rất nhiều người mỉm cười và cũng rất nhiều người phân vân.
"Thậm chí, mọi người có thể rời khỏi trang trại bất cứ lúc nào", Ông Smith nói.
"Tuy nhiên, vì chúng ta được bao phủ bởi các trang trại khác, nếu ai đó ra đi các chủ trang trại khác sẽ cho rằng người đó là nô lệ của trang trại đó khi ai đó bước vào đất của ông ta. Nên tôi kêu gọi mọi người đừng chấp nhận rủi ro cho sự tự do của mình bằng cách làm một việc ngu si.''
''Thay vì bỏ chạy, tôi kêu gọi mọi người nên ở lại đây, không phải là nô lệ nữa mà là những người làm tự nguyện và là những người đồng sở hữu trang trại. Đúng, bây giờ trang trại này là của mọi người".
Ông Jones cắn lưỡi để giữ mình lại.
"Bây giờ chúng ta nên để Ông Jones quản lý", ông Smith nói.
"Vì ông ta là người duy nhất ở đây có kinh nghiệm điều hành một trang trại. Đó là một việc rất khó để làm. Nhưng ông ta sẽ không còn là chủ của mọi người nữa, chỉ là một người làm khác trên trang trại này thôi. Thậm chí ông ta sẽ dùng kỹ năng tổ chức và quản lý để phục vụ mọi người. Ông ta sẽ chịu đựng chung với mọi người, thay vì trước đây. Và chúng ta cần nhau để làm việc. Nếu tất cả chúng ta hợp tác làm việc với nhau chúng ta có thể hưởng lợi chung với nhau.''
''Để kỷ niệm sự kiện vui vẻ này, tôi xin ra mắt mọi người một biểu tượng mới của sự đoàn kết và hợp tác. Lá cờ này sẽ làm biểu tượng của một trang trại Jones tự do."
Ông ta đưa lên một lá cờ mới nhưng những người đang lắng nghe vẫn còn quá ngạc nhiên để phản ứng.
"Và đây sẽ là khẩu hiệu", ông Smith thông báo.
'''Chúng ta làm việc với tư cách là những người tự do vì lợi ích chung, tuyên thề trung thành với Trang Trại Jones, nơi tượng trưng cho Thịnh Vượng, Tự Do và Công Lý có tất cả'''.
"Để ăn mừng mọi người có thể nghỉ ngơi ngày hôm nay để tận hưởng sự tự do mới. Hãy làm bất cứ điều gì mình muốn và trở lại đây vào sáng ngày mai, để chúng ta bắt đầu làm việc trên trang trại vĩ đại và cao thượng này với tư cách là những người tự do".
Ông Smith nói chuyện nghiêm túc. Những cựu nô lệ vỗ tay và ăn mừng.
---------------
Ngày Thứ 2 – Dân chủ là tự do?
"Chúng ta đều muốn trang trại này hoạt động hiệu quả". Ông Smith nói khi cuộc họp kế tiếp bắt đầu.
"Để chúng ta chùng nhau hưởng lợi. Chúng ta ai cũng biết rằng phải tốn rất nhiều công sức để trang trại bông gòn này làm việc hiệu quả, mọi người được tự do không đồng nghĩa với việc ngưng làm việc.''
''Bây giờ mọi người đang làm việc cho chính bản thân mình, tôi hy vọng mọi người sẽ làm việc chăm chỉ hơn trước. Thậm chí, bây giờ với niềm tự hào khi biết rằng mọi người đang làm việc cho chính bản thân mình. Đương nhiên vẫn phải có kỷ luật, nếu ai cũng làm bất cứ điều gì mình muốn thì trang trại này sẽ không làm được gì nữa. Cuộc thử nghiệm này sẽ thất bại và bị hủy.''
''Mọi người nên mang ơn ông Jones vì ông ta đã đồng ý ở lại đây để dùng chất xám và kỹ năng của mình để giúp trang trại này. Và tôi hy vọng mọi người sẽ tự giác vì trang trại này. Vài thành niên trong đội ngũ đã được chọn để giám sát các quá trình khác nhau trong việc sản xuất của trang trại. Để bảo đảm rằng ai cũng làm việc đã giao, để đảm bảo kỷ luật được tuân thủ, và vân vân. Còn tất cả người còn lại có thể đi ra đồng để bắt đầu ngày làm việc đầu tiên với tư cách là người tự do."
---------------
Ngày Thứ Ba – Ngộ nhận về dân chủ
Sáng hôm sau ông Smith có nét mặt giận dữ khi cuộc họp hàng ngày bắt đầu.
"Tôi có một việc không vui để làm trong ngày hôm nay", ông ta nói.
"Hôm qua Charles đã bị bắt khi anh ta cố tình giấu vài phần bông gòn đã thu hoạch. Dự đoán rằng anh ta sẽ bán để kiếm tiền cho riêng mình. Hành động này là sai kỷ luật. Đây là ăn cắp. Vì thế, Charles phải bị trừng phạt."
Hai người đàn ông trói Charles vào cây cột.
"Tôi không vui chút nào khi làm việc này", ông Smith nói tiếp.
"Nhưng mọi người phải hiểu là nếu chúng ta không giữ gìn kỷ luật, nếu chúng ta không có luật lệ để cùng nhau chấp hành, trang trại này sẽ thất bại, và chúng ta sẽ chịu thiệt hại."
Dây roi đánh vào lưng của Charles.
"Nếu chúng ta chung sức vì lợi ích chung, tất cả chúng ta sẽ thịnh vượng. Tự do không đồng nghĩa với ích kỷ và tham lam. Chúng ta phải làm việc chúng ta đã được giao và tôn trọng kỷ luật, và chúng ta sẽ được hưởng lợi. Thành viên nào cũng sẽ có phần trong lợi nhuận".
Một thanh niên tên Samuel bước lên nói.
"Nhưng nếu ông và ông Jones ra luật và dùng rói đánh chúng tôi nếu chúng tôi không làm theo thì nó có khác gì trước đây không?".
"Sao anh có thể nói vậy được?", Ông Smith hỏi.
"Tôi vô cùng ngạc nhiên. Trước đây anh là một nô lệ, bây giờ anh là một người tự do. Mọi thứ vẫn phải được quản lý bởi những người có trình độ để làm. Anh có biết quản lý một trang trại không, Samuel?"
"Không", anh ta trả lời.
"Nhưng nếu chúng ta được tự do thì tại sao chúng ta không có tiếng nói trong việc quyết định kỷ luật và trong việc hoạt động của trang trại?".
"Tôi rất bất giờ với sự vô ơn của anh". Ông Smith trả lời.
"Không một ai ở đây có thể quản lý một trang trại. Nên mọi người không ai có tư cách đưa ra quyết định về những hoạt động ở đây cả.''
''Mọi người hình như không biết ơn những thứ ông Jones đã làm cho mọi người. Từ việc bảo vệ mọi người từ những mối đe dọa bên ngoài. Mọi người không biết gì về những người có thể đến đây để bắt giữ và nô lệ hóa mọi người nếu không vì sự bảo vệ của ông Jones.''
''Đến việc đảm bảo mọi người có đồ ăn và dụng cụ để xây nhà, hoặc việc được chăm sóc khi bệnh hoan, và vân vân. Sẽ không có một trang trại, không có bông gòn để nhặt, không có đất để trồng và thu hoạch nếu không vì ông Jones. Mọi người phải nên mang ơn ông ta vì ông ta đã cho mọi người những thứ mọi người đang có. Cuộc sống của mọi người sẽ tệ hơn nếu không vì ông ta.''
''Bây giờ vầy, với tư cách là những người bình đẳng và tự do trong sinh hoạt, từ ngày hôm nay trong mỗi cuộc họp bất cứ người nào cũng có hai phút để hỏi hoặc ý kiến hoặc khiếu nại".
Với việc đó, mọi người đều hài lòng và đi ra đồng để nhặt bông gòn.
"Tôi có một thông báo lớn", ông Smith nói khi cuộc họp bắt đầu.
"Anh họ của ông Jones không chỉ đến để viến thắm trang trại chúng ta đâu. Từ ngày hôm nay mọi người sẽ được chọn ai sẽ quản lý trang trại này.''
''Dĩ nhiên việc này không thể đảm nhiệm bởi bất cứ ai, nhưng cứ ba tháng chúng ta sẽ có một cuộc họp. Mọi người sẽ chọn ai sẽ quản lý trang trại, ông Jones sẽ làm, hoặc anh họ của ông ta, ông Johnson.''
''Điều đó nghĩa là chính mọi người sẽ điều hành vì mọi người là người quyết định ai sẽ làm người quản lý thay cho mọi người. Nếu mọi người không thích cách quản lý, bây giờ mọi người có quyền thay đổi nó."
Ngạc nhiên và hài lòng, các công nhân ra đồng để nhặt bông gòn.
Ngày đã trôi qua. Rồi tới tháng. Rồi một năm đã trôi qua….
……và trang trại vẫn hoạt động như trước đây. Đôi lúc ông Jones quản lý, đôi lúc Ông Johnson quản lý. Nhưng công việc hàng ngày vẫn như vậy. Công nhân làm việc cực nhọc mỗi ngày và chẳng dư giả gì. Mỗi ngày cuộc họp bắt đầu với việc đọc lại khẩu hiệu của trang trại Jones.
"Chúng ta làm việc với tư cách là những người tự do vì lợi ích chung, tuyên thề trung thành với Trang Trại Jones, nơi tượng trưng cho Thịnh Vượng, Tự Do và Công Lý có tất cả."
"Anh Samuel xin phép nói vài lời sáng ngày hôm nay và mặc cho chúng ta nghĩ gì về những ý tưởng của anh ta, ở đây ai cũng tự do cả. Điều đó nghĩa là Samuel có hai phút để nói. Mời anh."
Samuel bước lên trên, với vẻ mặt lo sợ.
"Tôi rất phấn khởi khi chúng ta thay đổi". Anh ta bắt đầu nhìn ông Smith và Jones một cách e ngại.
"Nhưng mọi người không thấy điều gì đã xảy ra sao?. Không có gì thay đổi cả.
Mọi người to nhỏ có vẻ không đồng ý.
"Họ vẫn cho chúng ta biết chúng ta nên làm gì và dùng roi đánh chúng ta nếu chúng ta không làm. Họ vẫn là người làm ra luật lệ và trừng phạt chúng ta nếu chúng ta không tuân thủ. Họ cho chúng ta ý kiến và khiếu nại về mọi thứ nhưng họ không thay đổi điều gì cả.''
''Họ cho phép chúng ta chọn giữa ông Jones và ông Johnson. Nhưng sự khác biệt là gì? Hoàn cảnh vẫn như vậy. Chúng ta làm hết mọi chuyện và họ lấy bao nhiêu cũng được và quyết định cho phép chúng giữ được bao nhiêu phần lời?''
''Họ sống trong giàu sang từ những bông gòn chúng ta nhặt. Chúng ta làm tất cả và phải tự xây chòi riêng, trồng đồ ăn riêng và tự chăm sóc bản bản thân. Họ chỉ chừa chúng ta vừa đủ để chúng ta không chống đối hoặc bỏ chạy.''
''Đây không phải là tự do, chúng ta vẫn là nô lệ. Họ chỉ thay đổi lời nói nhưng không có gì thay đổi cả.''
''Họ nói rằng chúng ta là những người tự do và bình đẳng nhưng không phải vậy. Họ ra lệnh và chúng ta tuân theo. Đó không phải là tự do, đó không phải là công bằng. Họ nói rằng chúng ta có thể ra đi bất cứ lúc nào nhưng điều đó vẫn nghĩa là chúng ta có quyền để trở thành một nô lệ của người khác.''
''Tại sao chúng ta lại đồng ý với luật lệ này. Chúng ta đâu có đồng ý với việc này?''
''Họ thành lập ra hệ thống, và ép chúng ta làm theo, họ kiểm soát và ăn bớt từ chúng ta và gọi đó là tự do. Họ đã lừa mọi người vào việc suy nghĩ rằng quyền để chọn người chủ nô lệ đồng nghĩa với tự do. Nhưng điều đó không đúng. Hãy mở mắt ra đi.''
''Nếu chúng ta giữ những gì chúng ta làm ra, họ kêu đó là ăn cắp. Nhưng khi họ lấy những gì chúng ta làm ra, họ gọi đó là chia sẻ và phân chia công bằng. Mọi người không thấy sao, đây chỉ là………………..…….."
"Thời gian của anh đã hết rồi Samuel", ông Smith nói một cách nhỏ nhẹ.
Ông ta ra dấu hiệu cho người làm cầm tay Samuel và dẫn anh ta tới cột trừng phạt.
"Xin lỗi Samuel, nhưng anh đã làm sai luật.''
''Có luật không có phép anh khuyến khích người khác không làm việc và khuyến khích người khác phá luật lệ. Anh chỉ làm tổn thương mọi người với sự khiếu nại và sự bất đồng của anh."
Dây coi đánh vào anh Samuel và anh ta rên rỉ.
"Nếu không có điều lệ, không có trật tự, tất cả sẽ bị mất. Nếu không luật, sẽ có sự hỗn loạn. Chúng ta không thể sống như những con thú, làm việc tùy tiện. Chúng ta phải tuân theo kế hoach, mọi người phải làm nhiệm vụ vì lợi ích chung. Những ai không làm theo sẽ bị trừng phạt.''
Dây roi dánh vào người anh Samuel và máu đã chảy ra từ người anh ta.
''Samuel, chính anh mới là người ăn cắp từ mọi người. Khi anh không làm việc đã giao, anh bắt người khác phải làm nhiều hơn. Khi anh không tuân theo điều lệ, chính anh mới là người đe dọa tương lai của những người khác ở đây.''
Anh là một người ăn cướp, là một người tội phạm, anh là người đang muốn hủy những thứ đang bảo vệ và làm giàu chúng ta".
Mỗi lần đánh, dây roi kêu lớn hơn trong lúc mọi người vỗ tay một lúc lớn hơn. Vài người la hét, chửi anh Samuel hư hỏng và ích kỷ.
"Anh khiếu nại về mọi thứ, nói chuyện như chính anh là người bị đày, nhưng chính anh mới là người làm hư hỏng mọi thứ ở đây. Anh là người đang kìm nén sự phát triển của chúng ta. Chính sự tham lam, sự nông cuồng của anh đang làm tổn thương chúng ta".
"Họ sống đúng luật", ông Smith nói. Chỉ về phía những người khác.
"Điều gì làm anh nghĩ rằng anh không cần phải làm tương tự?. Anh nghĩ anh hơn luật sao?"
Có tiếng hét đồng ý khi dây roi đánh vào người anh Samuel nữa.
"Chúng ta phải giữ trật tự", ông Smith nói.
"Để trang trại này hoạt động tốt, để chúng ta hạnh phúc và thịnh vượng. Để có một xã hội chúng ta muốn thì phải có luật lệ. Chúng ta phải đóng góp một cách công bằng cho việc này, và chúng ta không thể chấp nhập những thái độ nào hạ thấp những điều kỳ diệu chúng ta đã và đang xây dựng với tư cách là người tự do."
Ông Jones mỉm cười khi ông ta vỗ vai ông Smith. Mọi người cổ vũ lớn tới dộ không một ai trogn họ đã để ý rằng……………………………..…….Samuel đã chết.
---------------
Lời kết
Những điều bạn được dạy về chính phủ và chính trị có lý cũng như những gì ông Smith và Jones đã dạy những người nô lệ. Nếu bạn chuẩn bị để nhìn xuyên qua cái màn của văn chương và tuyên truyền để thấy được sự thật, hãy đọc cuốn 'The Most Dangerous Superstition'. Nó sẽ thay đổi cái nhìn của bạn về thế giới.
nguồn: https://www.facebook.com/video.php?v=752105958256254
--------------
Dịch: Ku Búa
Nguồn: Jones Plantation, Youtube
---------------
Ngày Thứ Nhất – Nô lệ và dân chủ
Một ngày nọ ông Jones gọi tất cả những người nô lệ lại để một người tên là ông Smith có thể nói chuyện với họ. Trước khi nói chuyện ông Smith nói nhỏ với ông Jones rằng
"Dù tôi nói gì đi nữa cũng đừng lên tiếng hoặc phản đối, tôi hứa với ông rằng sẽ không còn vấn đề gì với những người nô lệ nữa."
"Tôi tên là ông Smith", ông ta nói với các người nô lệ.
"Và hôm nay có thể sẽ là một trong những ngày hạnh phục nhất của mọi người. Kể từ ngày hôm nay, mọi người sẽ không còn là nô lệ nữa, mà sẽ là những người tự do."
Ông Jones vô cùng kinh ngạc, ông ta bắt đầu bước lên phía trước nhưng ông Smith đã ra dấu hiệu cho ông ta im lặng. Ông ta chỉ làm vậy vì chủ trang trại kia đã có rất nhiều lời khen về kỹ năng của ông Smith.
"Mọi người không còn là tài sản của ông Jones nữa". Ông Smith nói tiếp.
"Mọi người đã tự do. Mọi người không phải làm việc để phục vụ ông Jones nữa.''
''Bây giờ mọi người sẽ làm việc cho chính bản thân".
Bây giờ các nô lệ đang xì xào và nhìn nhau. Rất nhiều người mỉm cười và cũng rất nhiều người phân vân.
"Thậm chí, mọi người có thể rời khỏi trang trại bất cứ lúc nào", Ông Smith nói.
"Tuy nhiên, vì chúng ta được bao phủ bởi các trang trại khác, nếu ai đó ra đi các chủ trang trại khác sẽ cho rằng người đó là nô lệ của trang trại đó khi ai đó bước vào đất của ông ta. Nên tôi kêu gọi mọi người đừng chấp nhận rủi ro cho sự tự do của mình bằng cách làm một việc ngu si.''
''Thay vì bỏ chạy, tôi kêu gọi mọi người nên ở lại đây, không phải là nô lệ nữa mà là những người làm tự nguyện và là những người đồng sở hữu trang trại. Đúng, bây giờ trang trại này là của mọi người".
Ông Jones cắn lưỡi để giữ mình lại.
"Bây giờ chúng ta nên để Ông Jones quản lý", ông Smith nói.
"Vì ông ta là người duy nhất ở đây có kinh nghiệm điều hành một trang trại. Đó là một việc rất khó để làm. Nhưng ông ta sẽ không còn là chủ của mọi người nữa, chỉ là một người làm khác trên trang trại này thôi. Thậm chí ông ta sẽ dùng kỹ năng tổ chức và quản lý để phục vụ mọi người. Ông ta sẽ chịu đựng chung với mọi người, thay vì trước đây. Và chúng ta cần nhau để làm việc. Nếu tất cả chúng ta hợp tác làm việc với nhau chúng ta có thể hưởng lợi chung với nhau.''
''Để kỷ niệm sự kiện vui vẻ này, tôi xin ra mắt mọi người một biểu tượng mới của sự đoàn kết và hợp tác. Lá cờ này sẽ làm biểu tượng của một trang trại Jones tự do."
Ông ta đưa lên một lá cờ mới nhưng những người đang lắng nghe vẫn còn quá ngạc nhiên để phản ứng.
"Và đây sẽ là khẩu hiệu", ông Smith thông báo.
'''Chúng ta làm việc với tư cách là những người tự do vì lợi ích chung, tuyên thề trung thành với Trang Trại Jones, nơi tượng trưng cho Thịnh Vượng, Tự Do và Công Lý có tất cả'''.
"Để ăn mừng mọi người có thể nghỉ ngơi ngày hôm nay để tận hưởng sự tự do mới. Hãy làm bất cứ điều gì mình muốn và trở lại đây vào sáng ngày mai, để chúng ta bắt đầu làm việc trên trang trại vĩ đại và cao thượng này với tư cách là những người tự do".
Ông Smith nói chuyện nghiêm túc. Những cựu nô lệ vỗ tay và ăn mừng.
---------------
Ngày Thứ 2 – Dân chủ là tự do?
"Chúng ta đều muốn trang trại này hoạt động hiệu quả". Ông Smith nói khi cuộc họp kế tiếp bắt đầu.
"Để chúng ta chùng nhau hưởng lợi. Chúng ta ai cũng biết rằng phải tốn rất nhiều công sức để trang trại bông gòn này làm việc hiệu quả, mọi người được tự do không đồng nghĩa với việc ngưng làm việc.''
''Bây giờ mọi người đang làm việc cho chính bản thân mình, tôi hy vọng mọi người sẽ làm việc chăm chỉ hơn trước. Thậm chí, bây giờ với niềm tự hào khi biết rằng mọi người đang làm việc cho chính bản thân mình. Đương nhiên vẫn phải có kỷ luật, nếu ai cũng làm bất cứ điều gì mình muốn thì trang trại này sẽ không làm được gì nữa. Cuộc thử nghiệm này sẽ thất bại và bị hủy.''
''Mọi người nên mang ơn ông Jones vì ông ta đã đồng ý ở lại đây để dùng chất xám và kỹ năng của mình để giúp trang trại này. Và tôi hy vọng mọi người sẽ tự giác vì trang trại này. Vài thành niên trong đội ngũ đã được chọn để giám sát các quá trình khác nhau trong việc sản xuất của trang trại. Để bảo đảm rằng ai cũng làm việc đã giao, để đảm bảo kỷ luật được tuân thủ, và vân vân. Còn tất cả người còn lại có thể đi ra đồng để bắt đầu ngày làm việc đầu tiên với tư cách là người tự do."
---------------
Ngày Thứ Ba – Ngộ nhận về dân chủ
Sáng hôm sau ông Smith có nét mặt giận dữ khi cuộc họp hàng ngày bắt đầu.
"Tôi có một việc không vui để làm trong ngày hôm nay", ông ta nói.
"Hôm qua Charles đã bị bắt khi anh ta cố tình giấu vài phần bông gòn đã thu hoạch. Dự đoán rằng anh ta sẽ bán để kiếm tiền cho riêng mình. Hành động này là sai kỷ luật. Đây là ăn cắp. Vì thế, Charles phải bị trừng phạt."
Hai người đàn ông trói Charles vào cây cột.
"Tôi không vui chút nào khi làm việc này", ông Smith nói tiếp.
"Nhưng mọi người phải hiểu là nếu chúng ta không giữ gìn kỷ luật, nếu chúng ta không có luật lệ để cùng nhau chấp hành, trang trại này sẽ thất bại, và chúng ta sẽ chịu thiệt hại."
Dây roi đánh vào lưng của Charles.
"Nếu chúng ta chung sức vì lợi ích chung, tất cả chúng ta sẽ thịnh vượng. Tự do không đồng nghĩa với ích kỷ và tham lam. Chúng ta phải làm việc chúng ta đã được giao và tôn trọng kỷ luật, và chúng ta sẽ được hưởng lợi. Thành viên nào cũng sẽ có phần trong lợi nhuận".
Một thanh niên tên Samuel bước lên nói.
"Nhưng nếu ông và ông Jones ra luật và dùng rói đánh chúng tôi nếu chúng tôi không làm theo thì nó có khác gì trước đây không?".
"Sao anh có thể nói vậy được?", Ông Smith hỏi.
"Tôi vô cùng ngạc nhiên. Trước đây anh là một nô lệ, bây giờ anh là một người tự do. Mọi thứ vẫn phải được quản lý bởi những người có trình độ để làm. Anh có biết quản lý một trang trại không, Samuel?"
"Không", anh ta trả lời.
"Nhưng nếu chúng ta được tự do thì tại sao chúng ta không có tiếng nói trong việc quyết định kỷ luật và trong việc hoạt động của trang trại?".
"Tôi rất bất giờ với sự vô ơn của anh". Ông Smith trả lời.
"Không một ai ở đây có thể quản lý một trang trại. Nên mọi người không ai có tư cách đưa ra quyết định về những hoạt động ở đây cả.''
''Mọi người hình như không biết ơn những thứ ông Jones đã làm cho mọi người. Từ việc bảo vệ mọi người từ những mối đe dọa bên ngoài. Mọi người không biết gì về những người có thể đến đây để bắt giữ và nô lệ hóa mọi người nếu không vì sự bảo vệ của ông Jones.''
''Đến việc đảm bảo mọi người có đồ ăn và dụng cụ để xây nhà, hoặc việc được chăm sóc khi bệnh hoan, và vân vân. Sẽ không có một trang trại, không có bông gòn để nhặt, không có đất để trồng và thu hoạch nếu không vì ông Jones. Mọi người phải nên mang ơn ông ta vì ông ta đã cho mọi người những thứ mọi người đang có. Cuộc sống của mọi người sẽ tệ hơn nếu không vì ông ta.''
''Bây giờ vầy, với tư cách là những người bình đẳng và tự do trong sinh hoạt, từ ngày hôm nay trong mỗi cuộc họp bất cứ người nào cũng có hai phút để hỏi hoặc ý kiến hoặc khiếu nại".
Với việc đó, mọi người đều hài lòng và đi ra đồng để nhặt bông gòn.
"Tôi có một thông báo lớn", ông Smith nói khi cuộc họp bắt đầu.
"Anh họ của ông Jones không chỉ đến để viến thắm trang trại chúng ta đâu. Từ ngày hôm nay mọi người sẽ được chọn ai sẽ quản lý trang trại này.''
''Dĩ nhiên việc này không thể đảm nhiệm bởi bất cứ ai, nhưng cứ ba tháng chúng ta sẽ có một cuộc họp. Mọi người sẽ chọn ai sẽ quản lý trang trại, ông Jones sẽ làm, hoặc anh họ của ông ta, ông Johnson.''
''Điều đó nghĩa là chính mọi người sẽ điều hành vì mọi người là người quyết định ai sẽ làm người quản lý thay cho mọi người. Nếu mọi người không thích cách quản lý, bây giờ mọi người có quyền thay đổi nó."
Ngạc nhiên và hài lòng, các công nhân ra đồng để nhặt bông gòn.
Ngày đã trôi qua. Rồi tới tháng. Rồi một năm đã trôi qua….
……và trang trại vẫn hoạt động như trước đây. Đôi lúc ông Jones quản lý, đôi lúc Ông Johnson quản lý. Nhưng công việc hàng ngày vẫn như vậy. Công nhân làm việc cực nhọc mỗi ngày và chẳng dư giả gì. Mỗi ngày cuộc họp bắt đầu với việc đọc lại khẩu hiệu của trang trại Jones.
"Chúng ta làm việc với tư cách là những người tự do vì lợi ích chung, tuyên thề trung thành với Trang Trại Jones, nơi tượng trưng cho Thịnh Vượng, Tự Do và Công Lý có tất cả."
"Anh Samuel xin phép nói vài lời sáng ngày hôm nay và mặc cho chúng ta nghĩ gì về những ý tưởng của anh ta, ở đây ai cũng tự do cả. Điều đó nghĩa là Samuel có hai phút để nói. Mời anh."
Samuel bước lên trên, với vẻ mặt lo sợ.
"Tôi rất phấn khởi khi chúng ta thay đổi". Anh ta bắt đầu nhìn ông Smith và Jones một cách e ngại.
"Nhưng mọi người không thấy điều gì đã xảy ra sao?. Không có gì thay đổi cả.
Mọi người to nhỏ có vẻ không đồng ý.
"Họ vẫn cho chúng ta biết chúng ta nên làm gì và dùng roi đánh chúng ta nếu chúng ta không làm. Họ vẫn là người làm ra luật lệ và trừng phạt chúng ta nếu chúng ta không tuân thủ. Họ cho chúng ta ý kiến và khiếu nại về mọi thứ nhưng họ không thay đổi điều gì cả.''
''Họ cho phép chúng ta chọn giữa ông Jones và ông Johnson. Nhưng sự khác biệt là gì? Hoàn cảnh vẫn như vậy. Chúng ta làm hết mọi chuyện và họ lấy bao nhiêu cũng được và quyết định cho phép chúng giữ được bao nhiêu phần lời?''
''Họ sống trong giàu sang từ những bông gòn chúng ta nhặt. Chúng ta làm tất cả và phải tự xây chòi riêng, trồng đồ ăn riêng và tự chăm sóc bản bản thân. Họ chỉ chừa chúng ta vừa đủ để chúng ta không chống đối hoặc bỏ chạy.''
''Đây không phải là tự do, chúng ta vẫn là nô lệ. Họ chỉ thay đổi lời nói nhưng không có gì thay đổi cả.''
''Họ nói rằng chúng ta là những người tự do và bình đẳng nhưng không phải vậy. Họ ra lệnh và chúng ta tuân theo. Đó không phải là tự do, đó không phải là công bằng. Họ nói rằng chúng ta có thể ra đi bất cứ lúc nào nhưng điều đó vẫn nghĩa là chúng ta có quyền để trở thành một nô lệ của người khác.''
''Tại sao chúng ta lại đồng ý với luật lệ này. Chúng ta đâu có đồng ý với việc này?''
''Họ thành lập ra hệ thống, và ép chúng ta làm theo, họ kiểm soát và ăn bớt từ chúng ta và gọi đó là tự do. Họ đã lừa mọi người vào việc suy nghĩ rằng quyền để chọn người chủ nô lệ đồng nghĩa với tự do. Nhưng điều đó không đúng. Hãy mở mắt ra đi.''
''Nếu chúng ta giữ những gì chúng ta làm ra, họ kêu đó là ăn cắp. Nhưng khi họ lấy những gì chúng ta làm ra, họ gọi đó là chia sẻ và phân chia công bằng. Mọi người không thấy sao, đây chỉ là………………..…….."
"Thời gian của anh đã hết rồi Samuel", ông Smith nói một cách nhỏ nhẹ.
Ông ta ra dấu hiệu cho người làm cầm tay Samuel và dẫn anh ta tới cột trừng phạt.
"Xin lỗi Samuel, nhưng anh đã làm sai luật.''
''Có luật không có phép anh khuyến khích người khác không làm việc và khuyến khích người khác phá luật lệ. Anh chỉ làm tổn thương mọi người với sự khiếu nại và sự bất đồng của anh."
Dây coi đánh vào anh Samuel và anh ta rên rỉ.
"Nếu không có điều lệ, không có trật tự, tất cả sẽ bị mất. Nếu không luật, sẽ có sự hỗn loạn. Chúng ta không thể sống như những con thú, làm việc tùy tiện. Chúng ta phải tuân theo kế hoach, mọi người phải làm nhiệm vụ vì lợi ích chung. Những ai không làm theo sẽ bị trừng phạt.''
Dây roi dánh vào người anh Samuel và máu đã chảy ra từ người anh ta.
''Samuel, chính anh mới là người ăn cắp từ mọi người. Khi anh không làm việc đã giao, anh bắt người khác phải làm nhiều hơn. Khi anh không tuân theo điều lệ, chính anh mới là người đe dọa tương lai của những người khác ở đây.''
Anh là một người ăn cướp, là một người tội phạm, anh là người đang muốn hủy những thứ đang bảo vệ và làm giàu chúng ta".
Mỗi lần đánh, dây roi kêu lớn hơn trong lúc mọi người vỗ tay một lúc lớn hơn. Vài người la hét, chửi anh Samuel hư hỏng và ích kỷ.
"Anh khiếu nại về mọi thứ, nói chuyện như chính anh là người bị đày, nhưng chính anh mới là người làm hư hỏng mọi thứ ở đây. Anh là người đang kìm nén sự phát triển của chúng ta. Chính sự tham lam, sự nông cuồng của anh đang làm tổn thương chúng ta".
"Họ sống đúng luật", ông Smith nói. Chỉ về phía những người khác.
"Điều gì làm anh nghĩ rằng anh không cần phải làm tương tự?. Anh nghĩ anh hơn luật sao?"
Có tiếng hét đồng ý khi dây roi đánh vào người anh Samuel nữa.
"Chúng ta phải giữ trật tự", ông Smith nói.
"Để trang trại này hoạt động tốt, để chúng ta hạnh phúc và thịnh vượng. Để có một xã hội chúng ta muốn thì phải có luật lệ. Chúng ta phải đóng góp một cách công bằng cho việc này, và chúng ta không thể chấp nhập những thái độ nào hạ thấp những điều kỳ diệu chúng ta đã và đang xây dựng với tư cách là người tự do."
Ông Jones mỉm cười khi ông ta vỗ vai ông Smith. Mọi người cổ vũ lớn tới dộ không một ai trogn họ đã để ý rằng……………………………..…….Samuel đã chết.
---------------
Lời kết
Những điều bạn được dạy về chính phủ và chính trị có lý cũng như những gì ông Smith và Jones đã dạy những người nô lệ. Nếu bạn chuẩn bị để nhìn xuyên qua cái màn của văn chương và tuyên truyền để thấy được sự thật, hãy đọc cuốn 'The Most Dangerous Superstition'. Nó sẽ thay đổi cái nhìn của bạn về thế giới.
nguồn: https://www.facebook.com/video.php?v=752105958256254
--------------
Dịch: Ku Búa
Nguồn: Jones Plantation, Youtube
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)