Văn hoá và Tăng trưởng; http://tmp.chungta.com/Desktop.aspx/TuLieu/Tu-lieu-Tra-cuu/Van_hoa_va_Tang_truong/
Nguyễn Trần BạtSách Văn hóa & Con người, 2005
Văn hoá là mục tiêu của phát triển
Trên
thế giới hiện nay người ta mới đưa ra một vài khái niệm, hay nói đúng
hơn là mô tả sự phát triển, chứ chưa có định nghĩa của sự phát triển.
Tuy nhiên, tôi sẽ cố gắng làm công việc khó khăn này.Tôi cho rằng
sự phát triển là trạng thái cho phép chúng ta thoả mãn những nhu cầu tốt
đẹp của con người. Ở đâu con người có năng lực nhận thức tốt hơn, có
năng lực và điều kiện hưởng thụ tốt hơn, có điều kiện để tư duy một cách
tự do và sáng tạo hơn, có sức cạnh tranh tốt hơn, tóm lại, ở đâu con
người cảm thấy hạnh phúc thì ở đó có sự phát triển.
Phát
triển, suy cho cùng, chính là sự tăng trưởng những giá trị của con người
chứ không phải là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh
tế là một yếu tố để biểu thị - có lẽ là tập trung nhất - năng lực thoả
mãn nhu cầu của con người, nhưng không phải là tất cả. Khi người ta cố
gắng để có được sự tăng trưởng bằng mọi giá thì đó chỉ còn là cuộc chạy
đua giữa các nhà chính trị. Tôi cho rằng sự phát triển chân chính là
những khả năng, năng lực và những thành tựu đó con người tạo ra chứ
không phải là kết quả của những biến hoá chính trị, của sự thống kê mang
tính chính trị.
Sự phát triển về khoa học công nghệ hay trí tuệ
là sự đi đến điểm gặp nhau giữa người sáng tạo và người sử dụng. Người
ta nghĩ ra Internet mà không ai dùng thì Internet cũng không đóng vai
trò xã hội gì. Đấy chính là lý tưởng phát triển, tính tương thích giữa
dân trí và sự sáng tạo. Trước khi đi đến trạng thái ấy, các dân tộc đang
phát triển cần phải xác lập mục tiêu sống. Nếu đi theo những hình mẫu
cũ, chúng ta sẽ luôn luôn trong tình trạng thiếu thốn. Một số nước châu Á
đạt được sự tăng trưởng kinh tế rất đáng khích lệ nhưng vẫn không phát
triển, đó là vì họ không xác lập được sự cân bằng tổng hoà của các thành
tố tham gia vào quá trình phát triền, tức là không xác lập được giá trị
của sự phát triền. Tại sao? Vì họ chỉ nhìn chính họ, vào quá khứ của
họ, mà không nhìn vào hiện tại. Họ đố kỵ với tất cả những gì ở bên
ngoài.
Logic, theo tôi, cần phải khác. Chúng ta hãy đi tìm cuộc
sống của mình. Cái gì giúp chúng ta sống tốt, phát triển tốt hơn thì
chúng ta phải xem là quan trọng. Khi chúng ta xem nó là quan trọng, khi
chúng ta sử dụng nó thì chúng ta phải trả cho nó sự kính trọng nó, cũng
là kính trọng con người với các giá trị trọn vẹn của nó. Chính các giá
trị trọn vẹn của con người chứ không phải cái gì khác sẽ tạo ra hoặc phá
hoại sự phát triển bền vững. Định nghĩa sự phát triển là một nhiệm vụ
khó khăn, nhưng nếu đồng ý với chúng tôi rằng con người là mục tiêu của
sự phát triển thì có thể thấy rõ rằng phát triển bền vững chính là sự
hoàn thiện không ngừng của con người.
Trong mỗi con người có hai
năng lực khác nhau: năng lực để bán và năng lực để kiến tạo. Năng lực để
bán được chủ động chuẩn bị nhưng được sử dụng một cách bị động, còn
năng lực kiến tạo thì tồn tại một cách bị động nhưng lại được sử dụng
một cách chủ động. Sự hoàn thiện của con người chính là sự hoàn thiện
các khả năng này.
Như thế, phát triển vừa là một quá trình, vừa là
một trạng thái. Khi người ta xem xét nó thì nó là một trạng thái, còn
tự nó thì là một quá trình. Phát triển là một hiện tượng. Xem xét sự
phát triển là một hiện tượng khác. Viện trợ và nhận viện trợ, chẳng hạn,
không phải là sự phát triển. Người ta có thể dùng viện trợ như phương
tiện trợ giúp phát triển, như trợ giúp y tế hay trợ giúp kỹ thuật...
Nhưng
không bao giờ có thể tạo ra sự phát triển bằng cách mang tiền cho người
khác. Trợ giúp sự phát triển con người là tạo điều kiện cho con người
có đủ khả năng và năng lực để tạo ra đời sống của chính họ. Trường hợp
các quốc gia có các điều kiện tự nhiên đặc biệt, chẳng hạn các quốc gia
có nhiều dầu mỏ cũng vậy. Họ chẳng phải làm gì nhiều để có một điều kiện
sống tốt. Nhưng không ai coi đó là những quốc gia phát triển. Tất
nhiên, nếu dưới chân có một thứ gì đó giúp con người ăn được mà không
phải lao động thì đó không phải là điều bất hạnh. Nhưng tôi cũng không
biết có thể xem đó là may mắn hay không. Tôi luôn luôn cho rằng chỉ khi
nào con người tạo ra được một cách tự nhiên những giá trị của cuộc sống
thì mới có dấu hiệu của sự phát triển. Tất nhiên, con người có thể khai
thác thiên nhiên.
Nhưng họ phải khai thác thiên nhiên bằng những
sáng tạo của mình để không tàn phá các yếu tố khác của đời sống. Điều
này giống như khi được nhà của anh có một mỏ kim cương. Anh có thể đập
cái nhà đi để khai thác và mua một cái nhà khác.
Chất lượng sống
chắc chắn không chỉ tính bằng số lượng thịt hay vải, mà cao hơn, là đời
sống tinh thần và môi trường sống. Những nhu cầu vật chất là tuyệt đối
quan trọng trong giai đoạn đầu, khi con người còn phải đối mặt với nạn
đói, nạn rét, nhưng khi mức sống vật chất càng được cải thiện thì vai
trò của những yếu tố văn hoá tinh thần càng tăng lên. Như vậy, với tư
cách là mục tiêu của sự phát triển kinh tế, văn hoá góp phần quyết định
nhu cầu của xã hội, thông qua đó kích thích phát triển sản xuất và khoa
họe kỹ thuật.
Như ở trên chúng tôi đã nói, bản thân việc phân định
kinh tế và văn hoá một cách rạch ròi là không chặt chẽ và thoả đáng.
Theo chúng tôi, cũng giống như những hoạt động khác mà con người tiến
hành vì sự tồn tại, phát triển và tự hoàn thiện của mình, bản thân hoạt
động kinh tế không chỉ gắn bó với văn hoá mà thực sự cũng là một mảng
của văn hoá hiểu theo nghĩa rộng.
Chúng ta đang nói chuyện phát
triển kinh tế, đúng hơn là chúng ta đang nói đến năng lực vật chất. Bởi
kinh tế là phương thức, vật chất là đối tượng, là thực thể. Các qui mô
vật chất ảnh hưởng khá mạnh đến văn hoá. Nếu chúng ta nói đến hội hoạ
chẳng hạn, đại bộ phận tranh của phương Tây là tranh sơn dầu. Tính bền
vững của nó cho phép gìn giữ nhiều bằng chứng để chúng ta thưởng thức và
nghiên cứu. Trong khi đó, tranh của nhiều nước bằng giấy nên việc bảo
quản rất khó. Kết quả là chúng ta mất đi các tư liệu để nghiên cứu.
Ngược lại, con người càng va chạm nhiều càng có kinh nghiệm. Mối liên hệ
giữa văn hoá và sự phát triển quy mô vật chất hay kinh tế luôn thông
qua con người với tư cách là một thực thể văn hoá. Phương pháp nhận thức
kinh tế tác động thông qua con người: các kế sách làm ăn, các lý thuyết
về kinh tế... Cơ sở của mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và kinh tế
chính là ở chỗ: con người, với tư cách là một thực thể văn hoá, không
chỉ tham gia vào hoạt động kinh tế, mà còn tham gia vào việc xây dựng
các lý thuyết kinh tế và vào việc uốn nắn các trào lưu kinh tế. Bản thân
văn hoá và kinh tế là các khái niệm chỉ xuất hiện trong nhận thức,
chúng không phải là thực thể. Đó là những khái niệm tinh thần, sẽ thay
đổi cùng với thời gian, cùng với sự thay đổi cả văn hoá lẫn kinh tế.
Mối
quan hệ biện chứng giữa văn hoá và kinh tế là một trong những quan hệ
huyền bí nhất. Văn hoá có một vùng bao phủ rất lớn, gần như trọn vẹn đời
sống tinh thần của con người. Có thể nói rằng văn hoá chính là những
giá trị tinh thần của đời sống con người. Văn hoá tác động đến mọi mặt
của cuộc sống chứ không phải chỉ có kinh tế. Trong nghĩa hẹp nhất, văn
hoá, như chúng ta đã nghiên cứu trong những phần trước, có thể được hiểu
là lĩnh vực văn chương nghệ thuật. Văn hoá cũng có thể được hiểu rộng
hơn, bao gồm cả nghệ thuật, giáo đục, lối sống, tập tục. Với những cách
hiểu như thế, văn hoá được coi là mục tiêu của chính sách phát triển văn
hoá. Theo nghĩa này, nhà nước phải coi trọng văn hoá như là một bộ phận
của các hoạt động kinh tế và xã hội, phải đầu tư để "phát triển văn
hoá”.
Thông thường, cách hiểu này là kim chỉ nam cho chính sách
"văn hoá xã hội” của nhiều nhà nước, vốn giữ quan niệm kinh tế chủ nghĩa
về xã hội, một quan niệm đã ngự trị mấy thế kỷ trước và gần như suất
thế kỷ hai mươi. Quan niệm cũ này coi văn hoá là hệ quả của các quá
trình phát triển kinh tế, chính trị. Vì thế, cho đến nay, trong chính
sách phát triển của hầu hết các quốc gia, người ta tập trung phần lớn
vào các mục tiêu kinh tế, còn văn hoá nằm trong phần "phúc lợi" - các
phúc lợi kinh tế văn hoá, xã hội...
Tuy thế, cũng không nên phê
phán cách quan niệm ấy, bởi vì nó là quan niệm theo cách hiểu thông
thường của đại đa số nhân dân và cho phép hướng tới những mục tiêu gần.
Mặt khác, văn hoá, đối với sự phát triển của một quốc gia, nhất thiết
phải được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa tổng thể, bao gồm toàn thế các
hoạt động và các giá trị sáng tạo còn lại qua lịch sử, thể hiện trên các
lĩnh vực lao động, sinh hoạt vật chất và tinh thần.
Những người
theo quyết định luận kinh tế qui sự phát triển vào tăng trưởng kinh tế.
Nhưng thực tế cho thấy không phải cứ có thu nhập theo đầu người cao là
có văn hoá cao. Một số quốc gia dầu mỏ rất giàu có, nhưng đã không sao
thoát khỏi tình trạng lạc hậu. Chính vì lý do đó mà Liên Hợp Quốc đã
phải đưa vào những tiêu chí khác để đánh giá tình trạng phát triển, gọi
là chỉ số phát triển con người mà ngoài mức thu nhập người ta còn tính
đến cả tỷ lệ sống sau khi sinh, tỷ lệ biết đọc biết viết và số năm đi
học.
Như thế, phát triển phải nhằm đem lại cho con người cuộc sống
hạnh phúc trong một xã hội tiến bộ tổng thể, cả về mặt vật chất lẫn
tinh thần. Với cách quan niệm rộng như thế, chúng ta có thể vạch ra
chiến lược phát triển xa hơn.
Văn hoá là động lực của phát triển
Nói
văn hoá là động lực của sự phát triển chính là nói đến quá trình trong
đó con người được và tự trang bị cho mình những kiến thức, những hệ giá
trị để có thể trở thành một nhân tố tạo ra sự phát triển. Mục tiêu là
cái chúng ta đặt ra để phấn đấu. Còn động lực là công cụ để đi đến mục
tiêu. Khi chúng ta đã đạt được mục tiêu, chính nó lại trở thành hành
trang, phương tiện, thành công cụ để tạo ra vùng nhận thức mới. Đó chính
là động lực của sự phát triển.
Cách thức mà con người hay các dân
tộc lựa chọn để tìm kiếm tương lai cho mình là dựa trên những kinh
nghiệm văn hoá của nó. Văn hoá là nền tảng, là phương thức cơ bản để mỗi
dân tộc lựa chọn cung cách đi ra khỏi quá khứ của mình. Văn hoá là động
lực, nhưng không phải là động lực theo nghĩa thông thường. Văn hoá lớn
hơn nhiều so với các định nghĩa mà chúng ta thường thấy trong các sách
vở. Theo tôi, để phát triển, vấn đề không phải chỉ là việc chúng ta phải
vứt bỏ một thói quen cụ thể hay một cách nhìn cụ thể nào đó, như người
Việt phải vứt bỏ quan điểm tam tòng tử đức của thời phong kiến chẳng
hạn, mặc dù với tư cách là người Việt Nam, chúng tôi thiên về chủ trương
loại bỏ bớt những gì cổ xưa đang trở thành vật cản đối với với sự phát
triển đất nước.
Muốn biết văn hoá thời hiện đại là như thế nào và
nó tác động ra sao đến đời sống nhân loại, chúng ta phải xem xét thời
hiện đại là gì? Tôi không hoàn toàn đồng ý với ý kiến của một số học giả
về nền kinh tế tri thức. Theo tôi, chúng ta cần xây dựng một xã hội tri
thức trong đó tri thức là tiêu chuẩn số một để phân loại, định giá con
người. Bởi nền kinh tế nào cũng là sản phẩm của đời sống xã hội. Vì thế
không thể có nền kinh tế tri thức trước khi có một nền xã hội tri thức.
Chính
những tiêu chuẩn văn hoá, nhất là văn hoá chính trị, sẽ quyết định quan
điểm của con người về phát triển. Nó trở thành động lực trực tiếp của
tiến bộ. Đã đến lúc chúng ta không nên xem văn hoá là đối tượng chung
chung, mà nó phải trở thành tiêu chuẩn được thể hiện trong hành vi hàng
ngày tương ứng với cương vị và chức năng xã hội của từng người.
Thế
hệ trẻ có những tiêu chuẩn của mình. Đàn ông hay đàn bà có tiêu chuẩn
của riêng họ. Đặc biệt, nhà lãnh đạo càng phải có tiêu chuẩn của mình.
Theo tôi nền văn hoá chính trị là nền văn hoá với những tiêu chuẩn cần
thiết và bắt buộc đối với những người lãnh đạo để họ thể hiện hành vi
của mình đối với nhân dân, đùng cho nhân dân để lựa chọn người lãnh đạo.
Tôi
xin lấy hai mô hình quản lý chủ yếu trên thế giới hiện nay: một hình
phương Tây (đại diện là Mỹ) và phương Đông (đại diện là Nhật Bản). Trái
với những lời ca ngợi đầy rẫy trên báo chí, tôi không cho rằng các công
ty Nhật quản lý tốt, bởi vì tất cả các cộng đồng hẹp đều suy thoái. Các
công ty Nhật thường khép kín và đần dần biến thành những cộng đồng mang
tính gia đình. Chính sự tha hoá của các công ty Nhật Bản đã gây ra sự
suy sụp hiện nay của nền kinh tế Nhật Bản. Tuy nhiên, các công ty Nhật
không tự sáng tạo ra phương pháp quản lý của mình. Nó bắt nguồn từ kinh
nghiệm văn hoá của người Nhật. Người Nhật mở của trước người Việt Nam
xét về mặt kinh tế, nhưng người Nhật không mở cửa về mặt văn hoá. Rất
khó tìm thấy một người Nhật nói tiếng Anh tại Tokyo ngay cả vào năm
1988, khi chúng tôi có dịp đến thăm. Tại Nhật cho đến gần đây vẫn không
có quảng cáo bằng tiếng Anh. Sự bảo thủ về mặt văn hoá sẽ dẫn đến sự suy
thoái của nền kinh tế Nhật Bản nếu người Nhật không thức tỉnh về điều
này.
Mô hình Mỹ là mô hình được ưa chuộng nhất trên thế giới. Thế
hệ trẻ, thế hệ tương lai của các quốc gia, đang hướng về nền văn hoá
này. Bởi vì trong đó con người được khẳng định và được tự do sáng tạo,
tự do tiêu xài thời lượng của cuộc đời mình. Theo chúng tôi, ở đâu con
người không có tự do thì ở đó không có phát triển thật sự, có chăng chỉ
là sự đánh tráo nguồn tài nguyên này sang nguồn tài nguyên khác mà thôi.
Điều này có vẻ nghịch lý, bởi luật Mỹ chặt chẽ hơn luật Nhật rất nhiều.
Nhưng ở Mỹ, con người được tự do sáng tạo, tự do tư tưởng đến mức không
có ai có đủ uy tín để trở thành tổng thống nếu không thông qua sự tự
trình bày của mình.
Các công ty Mỹ như một tổ ong, có người ra và
người vào, dựa trên những tiêu chuẩn nào đó, với một cơ chế thông
thoáng. Tôi cho rằng mô hình này tốt hơn, bởi nó dựa trên sự tự do của
con người, bởi vì sớm hay muộn sự phát triển của xã hội cũng dựa trên sự
thức tỉnh các giá trị cá nhân. Toàn cầu hoá và hội nhập là một minh
chứng cho sự mất đi đần dần của các giá trị khu trú để cho phép con
người trở thành một đối tượng độc lập. Đó là cá nhân. Tính hiệu quả hiện
thời về mặt kinh tế của các công ty Mỹ chưa chắc đã hơn các công ty
Nhật Bản. Nhưng tính hiệu quả về mặt triết học thì chắc chắn là các công
ty Mỹ hơn hẳn.
Một đặc điểm khác của mô hình Mỹ là sự linh hoạt.
Cách người Mỹ quản lý hôm nay không giống như cách quản lý của họ trước
đây, và thậm chí không giống như trong các quyển sách đó chính họ viết.
Ngay cả trong xã hội cũng vậy, họ tạo ra một cộng đồng văn hóa rất linh
hoạt. Người Mỹ cỹng học hỏi nhiều từ phương Đông. Không có Viện nghiên
cứu về phương Đông nào của các nước phương Đông lại to như các Viện
nghiên cứu phương Đông của người Mỹ. Không có Viện bảo tàng nào về châu Á
ở châu Á lại to như Viện bảo tàng châu Á tại San Francisco. Người Mỹ
đang cố gắng nhận thức thế giới và chúng ta học họ, bám sát theo sự phát
triển kinh nghiệm của họ để nhận ra được rằng chất lượng phương Đông
trong các giải pháp chính trị xã hội và kinh tế của người Mỹ hoàn toàn
không kém phương Đông. Chúng ta cần phải vươn tới các giá trị hợp lý
hơn. Bởi vì phát triển văn hoá nhằm làm cho mỗi người có năng lực ứng xử
với nhiều nền văn hoá cùng một lúc, để có thể đối thoại một cách bình
đẳng với các nền văn hoá khác. Thành công của người Mỹ không thể giải
thích nếu không xem xét vai trò quyết định của văn hoá.
Trong bất
kỳ hoàn cảnh nào, thời đại nào, kinh tế vẫn đóng một vai trò cực kỳ quan
trọng, nếu như không nói là quan trọng nhất: Chúng ta không thể nói đến
phát triển nếu không cải thiện được đời sống vật chất cho con người.
Nhưng nếu như chúng ta quan niệm phát triển như là sự tiến bộ tổng thể
của xã hội thì không phải chỉ cần có sự giàu có vật chất là có sự phát
triển. Muốn có phát triển, cần phải có những tác động của đời sống tinh
thần. Hơn nữa, ngay cả việc tăng trưởng kinh tế đơn thuần cũng cần có
tác động trực tiếp và gián tiếp của văn hoá. Văn hoá làm tăng chất lượng
nhu cầu của con người, cũng làm tăng chất lượng sản xuất kinh doanh và
thúc đẩy xã hội phát triển. Chính vì lẽ đó mà hiện nay rất nhiều nhà
nghiên cứu văn hoá cổ vũ cho luận điểm cho rằng văn hoá vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của phát triển.
Thực ra con người lý tưởng là con
người được cân đối trong sự phát triển về mặt văn hoá. Con người chưa
có được các giá trị văn hoá ở mức phát triển là con người không hoàn
chỉnh. ở đây cần phải chú ý rằng nói đến phát triển là nói đến một sự so
sánh tương đối. Vậy chúng ta so sánh tương đối với ai? Với chính những
cộng đồng văn hoá khác, những con người khác. Khi chưa có nó, chúng ta
phải đặt ra mục tiêu để phấn đấu - phấn đấu để đạt tới sự trưởng thành,
sự hiện đại về mặt văn hoá, phấn đấu để các giá trị của mình tương thích
với sinh hoạt quốc tế. Nói cách khác về mặt văn hoá, mỗi dân tộc cần
phải phấn đấu để ra khỏi nền văn hoá mang tính cát cứ của mình, để có
thể đối thoại, để tươngthích một cách hoàn chỉnh, một cách hoà bình
trong sinh hoạt với các cộng đồng khác. Suy ra cho cùng con người hiện
đại, con người phát triển về mặt văn hoá tức là con người có thể nói
chuyện với nhiều cộng đồng văn hoá khác trên những tiêu chuẩn văn hoá
khác, tức là con người có thể hiểu các nền văn hoá khác nhau.
Văn
hoá hình thành do sự tương tác đa dạng, ngay cả trong cộng đồng hẹp, vì
vậy người có văn hoá là người có thể tương tác một cách thành công với
cộng đồng rộng hơn, và hơn thế nữa, với nhiều cộng đồng. Mỗi dân tộc cần
phải rèn luyện để có thể có năng lực ứng xử với nhiều hệ thống tiêu
chuẩn văn hoá.
Tất cả các nhân tố trong cấu trúc văn hoá đều tác
động đến đời sống con người. Nhưng cấu trúc văn hoá rất rộng, và mỗi một
dân tộc - mỗi cộng đồng văn hoá - đều có những thiếu hụt, những khiếm
khuyết nhất định. Nghiên cứu những cấu trúc ấy không chỉ có nghĩa là
nghiên cứu các giá trị, các nội dung phổ quát của khái niệm văn hoá mà
còn là nghiên cứu những khiếm khuyết trong cộng đồng văn hoá ấy.
Đó
chính là hoạt động quan trọng nhất của sự lãnh đạo chính trị đối với sự
phát triển. Tôi xin điểm qua ảnh hưởng của các thành tố trong cấu trúc
của văn hoá.
Vai trò của tri thức, tư tưởng
Tri
thức là động lực của tiến bộ. Các nhà triết học của nhiều thời đại đã
từng coi lịch sử nhân loại là cuộc đấu tranh xã hội. Tôi cho rằng lịch
sử loài người đồng thời còn là cuộc đấu tranh với thiên nhiên. Quan hệ
giữa con người với nhau và với thiên nhiên làm nên cốt lõi toàn bộ sự
tồn tại của loài người. Trong quá trình đó con người tìm hiểu chính mình
và tìm hiểu thiên nhiên.
Trong tất cả các tri thức mà con người
tích luỹ được qua các thời đại thì tư tưởng là thứ quan trọng nhất, cao
nhất và cũng tác động mạnh nhất đến tiến trình phát triển của lịch sử.
Đó là vì tư tưởng trực tiếp tác động đến hoạt động của nhà nước, làm
thay đổi sâu sắc đời sống của xã hội loài người. Nhưng vai trò của hệ tư
tưởng không chỉ nằm ở đó. Như chúng ta sẽ khảo sát trong phần ba dưới
đây, nhà nước còn có thể coi là một bên đối tác trong hợp đồng kinh tế
với xã hội, trong đó nhà nước cung cấp một vài loại dịch vụ đặc biệt và
đổi lấy các khoản thuế. Trong quan hệ này không thể không có các kẻ gian
lận và mọi hệ thống pháp luật đều không thể chống được triệt để. Hệ tư
tưởng lấp kín chỗ trống đó bằng cách tạo nên những quy tắc tâm lý, đạo
đức, thế giới quan để điều chỉnh những hành vi của con người.
Những
tác động trực tiếp của tri thức trong đời sống kinh tế nhân loại đang
không ngừng tăng lên. Từ kinh tế khai thác thiên nhiên, con người đang
tiến dần đến một nền kinh tế khai thác chất xám, trong đó phần giá trị
của nguyên vật liệu, tiền vốn và sức lao động cơ bắp đang ngày càng giảm
bớt.
Trong một nền kinh tế như thế, chỉ những quốc gia nào có
được một nền giáo dục tốt, đủ sức trang bị những kiến thức cần thiết cho
công dân của mình tương xứng với đòi hỏi của tương lai mới có thể có cơ
hội hội nhập thành công với thế giới.
Mọi sự phát triển luôn cần
có gợi ý, luôn có yếu tố sáng tạo của một ai đó, luôn luôn có thể nghiệm
sự sáng tạo nào đó. Đó là bản chất của sự phát triển và đó cũng là lý
do giải thích tầm quan trọng của một lực lượng tinh hoa trong xã hội.
Thực ra thì thực tiễn cuộc sống bao giờ cũng đặt ra nhiệm vụ cho người
này người kia. Có UNESCO là vì người ta cần có một tổ chức chuyên nghiệp
để giao nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá toàn cầu, để xây dựng sự chung
sống hoà bình giữa các cộng đồng dân tộc và cộng đồng văn hoá. Tuy
nhiên, chúng ta đừng kỳ vọng vào sự hoạt động của những ai đó cụ thể hay
tổ chức nào đó cụ thể. Chúng ta phải kỳ vọng trước hết vào sự thức tỉnh
những giá trị được gợi ý ở con người và được biến thành sở hữu cộng
đồng. Đúng là cần phải có ai đó gợi ý, ai đó nghĩ trước, nhưng sự gợi ý
phải gắn liền với sự chấp nhận mà sự chấp nhận nào cũng bắt đầu từ thiện
chí. Nhiều nhà nghiên cứu văn hoá làm việc một cách không vô tư. Họ
biểu diễn sự hiểu biết của họ hơn là vì con người. Một số không đủ dũng
cảm, hay thậm chí còn trở thành kẻ phụ hoạ chính trị.
Theo chúng
tôi, tiêu chuẩn văn hoá quan trọng nhất của thời đại của chúng ta là trí
tuệ, là tri thức. Trí tuệ không phải là diễn đạt một cách hiện đại các
kiến thức cũ mà chính là sự phát hiện những khái niệm, những giới hạn
mới trong quá trình nhận thức của con người. Vì thế trí tuệ gắn liền với
tự do.
Đã đến lúc chúng ta phải nói đến các khái niệm mới xuất
hiện trên thế giới, như khái niệm an ninh con người chẳng hạn. Khái niệm
này tương xứng với cặp phạm trù về an ninh quốc gia. Những khái niệm
mới này chính là tiêu chuẩn của thế giới hiện đại, là đòi hỏi đối với
hành vi của con người.
Vai trò của tín ngưỡng
Trong
một thời gian dài, do những nhận thức phiến diện hoặc do ảnh hưởng của
chủ nghĩa duy vật cực đoan, người ta coi thường hoặc phủ nhận vai trò
của tín ngưỡng đối với phát triển. Rõ ràng, muốn phát triển nguồn lực
con người chúng ta không thể bỏ qua vấn đề tín ngưỡng. Một thế giới bình
an để con người trở về sau những vật lộn trong đời sống, sau những biến
động khôn lường của thực tiễn xã hội chắc chắn là cần thiết để con
người tồn tại và phát triển.
Không phải ngẫu nhiên mà thời gian
cuối thế kỷ này được đánh dấu bằng sự phục hồi của gần như tất cả các
tôn giáo trên thế giới. Mặc dù không mang một ý nghĩa như nhau ở mọi nơi
trên thế giới, sự phục hồi này, theo chúng tôi, có nguồn gốc sâu xa ở
sự đổ vỡ của các hệ thống tư tưởng chính trị. Điều này rõ nhất ở Liên Xô
cũ và các nước trong khối xã hội chủ nghĩa trước đây. Tuy nhiên, điều
này cũng thấy ở cả các quốc gia Hồi giáo và Phật giáo... Nhưng điều đáng
lo ngại là ở một số nơi đang xuất hiện những hoạt động tôn giáo quá
khích, do những phần tử cơ hội giật dây, nhằm lợi dụng tình trạng mất
cân bằng của tâm lý xã hội để thực hiện những mục đích cá nhân.
Đã
qua rồi từ rất lâu thời trị vì trực tiếp của tôn giáo, nhưng người ta
vẫn phải thừa nhận một thực tế là tôn giáo ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình
thành lối sống, đến đạo đức xã hội. Nhiều người ngạc nhiên trước hiện
tượng là ở nhiều nước trên thế giới, chẳng hạn tại Thái Lan, Indonesia,
Campuchia và phần nào cả Việt Nam... người Hoa rất thành đạt và ngay cả
khi chỉ chiếm một phần nhỏ dân số, họ lại có thể khống chế được một sức
mạnh kinh tế cực kỳ to lớn. Theo chúng tôi đó không phải là ngẫu nhiên
mà gắn liền với bản lĩnh của người Hoa, mà bản lĩnh đó lại là kết quả
của những yếu tố văn hoá, trước hết là tôn giáo. Theo chúng tôi, chính
Khổng giáo đã dạy người Hoa những đức tính quí báu như cần cù, chịu đựng
gian khổ, coi trọng trí thức và có quan điểm thực tế. Những tính cách
này cũng rất rõ ở người Nhật, người Hàn Quốc và người Việt. Trong khi đó
Đạo Phật hướng người ta vào trạng thái cam chịu, dễ đầu hàng số phận và
hoàn cảnh, cuối cùng là thủ tiêu sự cạnh tranh.
Vai trò của truyền thống, đạo đức, lối sống và pháp luật?
Truyền
thống, đạo đức, lối sống và pháp luật có vai trò tổ chức, điều tiết và
định hướng, dĩ nhiên bằng những cách khác nhau, đối với sự phát triển xã
hội.
Truyền thống, đạo đức và lối sống, như chúng ta đã biết, là
những lề thói, những luật lệ không thành văn nhưng được đa số thành viên
trong xã hội chấp nhận và tuân thủ. Khác với pháp luật, những yếu tố
này được hình thành một cách tự nhiên, qua quá trình lâu dài và cũng
tương đối bền vững hơn.
Tuy nhiên, không phải những yếu tố này bao
giờ cũng mang vai trò tích cực. Trong khi rất nhiều khía cạnh của
truyền thống, đạo đức và lối sống có tác dụng hỗ trợ cho sự phát triển
thì cũng có những khía cạnh khác trở thành lạc hậu, tiêu cực và cản trở
sự tiến bộ của xã hội. Có thể thấy rõ những tác động của lối sống, đạo
đức và truyền thống đến sự phát triển kinh tế nếu so sánh những xã hội
như Hàn Quốc, Thái Lan... Yoshihara Kunio, trong cuốn sách nghiên cứu về
Hàn Quốc và Thái Lan nhận xét rằng đường như người Hàn Quốc coi trọng
làm việc hơn người Thái Lan. Người Hàn Quốc cũng ít thoả mãn hơn sẵn
sàng chấp nhận mạo hiểm hơn và coi trọng giáo dục hơn người Thái. Chính
những phẩm chất này đã đóng một vai trò quan trọng vào sự phát triển
nhanh chóng của Hàn Quốc và giải thích tại sao trong vòng hai chục năm
Hàn Quốe đã bỏ xa Thái Lan về mọi mặt.
Luật pháp tác động đến sự
phát triển trực tiếp và nhanh chóng hơn, thông qua những hình thức khác
nhau của quyền lực nhà nước. Pháp luật, vì thế cũng mang tính ngắn hạn
hơn, đồng thời cũng mang dấu ấn nặng nề của giai cấp cầm quyền. Nhiệm vụ
của một nhà nước văn minh là ngày càng khảm bớt tính giai cấp và tính
ngắn hạn của pháp luật.
Vai trò của thẩm mỹ
Như
chúng ta đã nghiên cứu ở trên, thẩm mỹ là một hệ thống hoàn chỉnh bao
gồm những năng lực tinh thần giúp cho con người điều chỉnh hành vi của
mình theo những qui luật của cái đẹp, nhằm cảm thụ, nhận thức, đánh giá
và sáng tạo nên các giá trị thẩm mỹ. Nó không thể bị đồng nhất với văn
hoá nghệ thuật, mà bao hàm tất cả các lĩnh vực của đời sống.
Thẩm
mỹ là khái niệm có liên quan đến tất cả những mặt khác của văn hoá như
tri thức, đạo đức, truyền thống... Trong nhiều trường hợp người ta còn
có thế coi chừng như những khái niệm đồng nhất. Chẳng hạn, chính tri
thức đầy đủ về con người, xã hội, luật pháp... giúp người ta lựa chọn
cách ứng xử - đó chính là thẩm mỹ trong cuộc sống. Nói cho cùng, thẩm mỹ
cũng chính là đạo đức.
Không cần phải tranh cãi, chúng ta ai cũng
thấy rõ rằng văn hoá thẩm mỹ đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với
việc hình thành nhân cách của con người, mà con người lại là đối tượng
phục vụ, đồng thời là cơ sở, là động lực của phát triển.
Nguồn: Sách Văn hóa & Con người, 2005
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét