Nguyễn Trần BạtChủ tịch - Tổng giám đốc, InvestConsult Group
http://tmp.chungta.com/Desktop.aspx/TuLieu/Tu-lieu-Tra-cuu/Tu_He_tu_tuong_den_He_gia_tri/
I. Tư tưởng, Hệ tư tưởng và Sự lạc hậu của các hệ tư tưởng
Trước
hết cần phải khẳng định rằng tư tưởng, với tư cách là sản phẩm tinh
thần của con người, luôn tồn tại. Nó xuất hiện một cách tự nhiên do nhu
cầu nhận thức của con người, phục vụ cho sự phát triển. Có thể nói, tư
tưởng là một trong những sản phẩm quan trọng nhất của đời sống mà con
người hoàn toàn có quyền tự hào, thứ sản phẩm còn cao hơn và tinh xảo
hơn mọi thứ sản phẩm công nghiệp hay công nghệ tinh xảo nhất.
Trong
cuộc sống có nhiều tư tưởng khác nhau. Các tư tưởng tương tác với nhau,
tập hợp lại với nhau một cách tự nhiên thành một chuỗi các nhận thức,
được thừa nhận và bị loại bỏ cũng theo quy luật tự nhiên. Là công cụ của
nhận thức, tư tưởng thể hiện thông qua các hành vi, cả những hành vi
của tư duy lẫn những hành vi bản năng. Tư tưởng được liên tục lựa chọn
bởi các cá nhân cụ thể và có vai trò định hướng hành động. Do đó, nhận
thức về tư tưởng phải linh hoạt chứ không thể coi nó là những giá trị
bất biến.
Nếu tư tưởng là công cụ của nhận thức thì hệ tư tưởng là
hệ thống các công cụ ấy. Hệ tư tưởng không phải là sản phẩm riêng của
cộng đồng, thậm chí nó cũng không phải là sản phẩm riêng của thời đại,
nó là sự tổng hòa những kinh nghiệm sống của nhiều cộng đồng người và
của nhiều thời đại.
Việc phổ biến rộng rãi một hệ tư tưởng nào đó
bao giờ cũng nhằm hướng dẫn hành vi của cả cộng đồng, góp phần tập trung
một cách cao độ và nhất thời các nguồn lực của cộng đồng ấy vì những
mục tiêu nhất định, lại những thời điểm nhất định. Tuy nhiên, sử dụng hệ
tư tưởng như một công cụ nhận thức toàn dân là một nhiệm vụ quan trọng
nhưng cũng hết sức nguy hiểm, nhất là khi việc sử dụng như vậy xảy ra
trong thời gian dài. Bởi lẽ, nó có thể đẩy cộng đồng ấy rơi vào tình
trạng thụ động, thậm chí là phản động.
Thực tế cho ta thấy chính
sự áp đặt và định hướng hành vi theo cách đó đã hạn chế năng lực sáng
tạo của con người. Thậm chí, đã đến lúc cần phải lên án tính lỗi thời
của hệ tư tưởng như là kết quả của sự bảo thủ hay là tính lười biếng.
Việc con người không dám nhận thức chủ động mà vẫn bám giữ các hệ giá
trị cũ được xây dựng bởi hệ tư tưởng cũ sẽ tạo ra tính lạc hậu tương đối
của hệ tư tưởng đối với sự phát triển của đời sống. Chính hệ tư tưởng,
với những yếu tố thuộc về bản chất, đã hạn chế năng lực sáng tạo của con
người và do đó, làm mất đi tính đa dạng sinh học của nhận thức.
Trong thế kỷ XX chúng ta đã mắc phải hai sai lầm nghiêm trọng. Sai lầm thứ nhất là
tách hệ tư tưởng ra khỏi cuộc sống và biến nó thành một thứ để tôn thờ.
Tôn thờ những giá trị tinh thần thì đúng, nhưng tôn thờ những giá trị
cụ thể của tinh thần thì lại hoàn toàn sai. Tư tưởng không phải là thứ
để tôn thờ mà nó được sinh ra nhằm phục vụ sự phát triển. Do đó, khi tư
tưởng không còn thích hợp hay đã trở nên lạc hậu thì chúng ta chỉ nên
nhìn nhận nó như một giá trị lịch sử với những công lao thuộc về thời
quá khứ mà thôi. Sai lầm thứ hai là tách các
giá trị biểu kiến của sự vật ra khỏi giá trị vật lý của nó. Thị trường
chứng khoán là một ví dụ điển hình. Thị trường chứng khoán tạo ra một hệ
thống các giá trị ảo bên ngoài năng lực thật của nó. Trong lĩnh vực tư
tưởng cũng vậy. Những thế lực ở thượng tầng kiến trúc đang tôn thờ một
giá trị, trong khi cuộc sống đã và đang đòi hỏi con người phải tìm kiếm
những giá trị khác.
Quan điểm của chúng tôi hết sức rõ ràng: hiện
nay, hệ tư tưởng không còn tương thích với sự phát triển của thế giới
hiện đại nữa, nó chỉ còn là những giá trị lịch sử. Đó là một sự thật,
không chỉ ở những quốc gia nghèo đói, mà ở trên phạm vi toàn thế giới,
có lẽ chỉ trừ ở chỗ nào mà con người vẫn muốn tiếp tục nô dịch con
người. Thế giới đang thay đổi hàng ngày và nó đòi hỏi mỗi người phải có
năng lực tư duy độc lập. Không thể chống lại trào lưu tự nhiên ấy và
chúng tôi tin rằng một thảm họa sẽ xảy ra nếu chúng ta gắng sức duy trì
sự thống trị của những hệ tư tưởng cũ.
II. Sự lên ngôi của Hệ giá trị
1. Đặc điểm của thế giới hiện đại
Như
trên đã nói, thay đổi không ngừng là một trong những đặc điểm dễ nhận
thấy nhất của thế giới hiện đại. Con người trong thời đại mới buộc phải
không ngừng vận động để thích nghi với các thực thể khác. Tốc độ phát
triển của thế giới được đó bằng thước đo dựa trên những yếu tố hiện thực
của các quốc gia phát triển và do đó, thay đổi để thích nghi là nhiệm
vụ vô cùng khó khăn nhưng không thể trốn tránh của các nước đang và kém
phát triển. Trong một môi trường vừa hợp tác vừa cạnh tranh sâu sắc, nếu
một dân tộc có năng lực cạnh tranh kém sẽ ngày càng ít cơ hội để phát
triển. Như vậy, đồng thời với các cơ hội được mở ra, toàn cầu hóa cũng
tạo ra mâu thuẫn gay gắt giữa các nước đang phát triển với các nước phát
triển trong quá trình mở cửa, hội nhập.
Đa phương hóa quan hệ là
đặc điểm cơ bản thứ hai của con người trong thế giới hiện đại. Gần đây,
trên các phương tiện thông tin đại chúng, người ta nói nhiều đến hội
nhập quốc tế trên tất cả các mặt của cuộc sống như là một điều kiện tiên
quyết cho phát triển, một xu thế tất yếu mà không một quốc gia nào có
thể đứng ngoài. Trong chiến lược phát triển của các quốc gia, đa hương
hóa quan hệ là một trong những mục tiêu cơ bản nhất. Toàn cầu hóa làm
cho thị trường của mỗi quốc gia được mở rộng ra phạm vi quốc tế, nhờ đó
quan hệ mua bán hàng hóa và dịch vụ được tăng lên nhanh chóng. Chưa bao
giờ mối quan hệ của các quốc gia được mở rộng như trong bối cảnh hiện
nay và sự phát triển của mỗi quốc gia gắn liền với các quốc gia khác vì
lợi ích chung của tất cả các bên.
Trình độ dân trí ngày càng cao
là đặc điểm cơ bản nữa của thế giới hiện đại. Tốc độ phát triển như vũ
bão của khoa học - công nghệ là minh chứng rõ nét nhất cho sự phát triển
của tri thức con người. Ngày càng được xã hội hóa, quốc tế hóa và toàn
cầu hóa qua đó, vốn tri thức này tác động tới mọi mặt của đời sống kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội của từng quốc gia. Thông tin, tri thức
được phổ biến rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới và do đó, gắn kết con
người với nhau, kết quả là các quốc gia tác động qua lại lẫn nhau, chịu
ảnh hưởng của nhau ngày càng sâu sắc. Hơn nữa, trình độ dân trí ngày
càng cao làm cho con người dần dần nhận ra giới hạn của thế giới xung
quanh. Họ cũng nhận ra và trực tiếp hay gián tiếp phổ biến những giá trị
toàn cầu, trong đó đặc biệt quan trọng là những giá trị cá nhân. Đó
chính là động lực của các cuộc cách mạng về tư tưởng.
2. Sự áp đặt tư tưởng và sự hình thành hệ giá trị
Mặc
dù có sứ mệnh quan trọng là giúp con người tổ chức các hành vi trong
cuộc sống, hệ tư tưởng không phải không có những giới hạn, mà trước hết
là những giới hạn về thời gian, về tính thích hợp và đặc biệt là tính
phổ biến. Sai lầm cơ bản của chúng ta là không hiểu được những giới hạn
ấy. Chúng ta luôn có xu hướng nghĩ hộ người khác, một người nghĩ cho
muôn người. Trong cuộc sống, có những vấn đề mang tính sống còn, mang
tính chiến lược cần đến những nhận thức cá nhân đặc biệt để vận động và
tổ chức mọi người giải quyết. Thế nhưng sẽ hoàn toàn sai lầm nếu biến
nhận thức cá nhân thành công cụ chế sẵn để áp đặt cho mọi người. Nếu ai
đó tự cho mình có cái quyền sáng tạo ra hệ tư tưởng và dùng quyền lực để
phổ biến áp đặt nó cho xã hội, thì về thực chất kẻ đó đã đẩy cả cộng
đồng đi theo hướng thụ động và tước đoạt cảm hứng nhận thức của toàn xã
hội. Dĩ nhiên, trên thực tế, nhiều quốc gia, nhiều cộng đồng đã có hệ tư
tưởng của mình. Nhưng đó không phải là kết quả của một mà nhiều người,
của toàn xã hội, kết quả của việc lựa chọn, sự sàng lọc tự nhiên những
cái có lý trong tư tưởng của các cá nhân. Nó khác xa với sự áp đặt tư
tưởng bằng cách dùng các phương tiện công cộng nhằm gây ra tính không
đối xứng về nhận thức của con người. Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng, áp
đặt hệ tư tưởng lên con người và tiêu diệt khả năng tự do nhận thức, tự
do tư tưởng, tự do hiểu biết của con người là biến con người thành những
kẻ bị nô dịch về tư tưởng.
Chúng tôi đánh giá rất cao luận văn
của ông Joseph Stiglitz, người đoạt giải Nobel kinh tế năm 2001 về tính
không đối xứng của thông tin. Tuy vậy, chúng tôi cho rằng tính không đối
xứng của thông tin không chỉ bắt nguồn từ quá trình nhận thức tự nhiên,
mà còn từ sự truyền bá quá nhiều những ý tưởng cá nhân. Chúng tôi không
cho rằng bất kỳ một cá nhân hay tổ chức nào được quyền tự đặt ra một hệ
tư tưởng. Chúng ta có quyền truyền bá tư tưởng của mình nhưng không
được lạm dụng điều này bởi nó sẽ tạo ra tính không đối xứng của thông
tin, và càng không được phép biến tình trạng này thành phổ biến. Trái
lại, chúng ta cần phải làm cho mọi người hiểu rằng tư tưởng là công cụ
để nhận thức, và ngày nay mỗi người đều phải là nhà tư tưởng. Nói đúng
hơn, mỗi người phải trở thành nhà tư tưởng của chính mình, của chính
hành động của mình, vì lợi ích của mình.
Vậy trong thời đại ngày
nay, cái gì sẽ thay thế hệ tư tưởng, khi nó không còn đóng vai trò chủ
đạo nữa? Theo chúng tôi, đó là hệ giá trị. Nếu như hệ tư tưởng là tập
hợp các tín điều thì hệ giá trị là tập hợp các tiêu chuẩn. Những đòi hỏi
của xã hội mới chính là áp lực buộc hệ tư tưởng phải nhường chỗ cho hệ
giá trị, với tư cách là tác nhân định hướng tiến bộ và dân chủ hơn. Trái
với bản chất giáo điều của hệ tư tưởng, các tiêu chuẩn luôn luôn thay
đổi cùng với cuộc sống. Rõ ràng việc thay đổi các tiêu chuẩn dễ dàng hơn
nhiều so với thay đổi các tín điều và cái gì dễ thay thế hơn thì nó
thích hợp với cuộc sống hơn.
Tóm lại, theo chúng tôi, con người sẽ
không bao giờ quay lại các hệ tư tưởng mà sẽ xây dựng một tập hợp các
giá trị từ các tiêu chuẩn thông thường của đời sống. Tính phổ biến của
các giá trị sẽ tạo nên hệ thống giá trị, và hệ thống giá trị tạo ra sự
đồng nhất của các giá trị. Nói cách khác, hệ thống giá trị sẽ là tư
tưởng của đời sống hiện đại.
III. Toàn cầu hoá và Sự hình thành hệ giá trị toàn cầu
Không
ai có thể phủ nhận được rằng toàn cầu hóa đem đến cho nhân loại, cả
những nước phát triển lẫn những nước chậm phát triển, những cơ hội phát
triển và cả những thách thức vô cùng to lớn. Ngày nay, tất cả các quốc
gia, do quá trình toàn cầu hóa, có mặt trong nhau, chịu ảnh hưởng lẫn
nhau. Chính trong quá trình toàn cầu hóa mà thế giới bỗng nhiên nhận
thức ra các giá trị chung mà con người cần phải có để chung sống và phát
triển. Do đó, toàn cầu hóa đối với lịch sử nhân loại cũng có giá trị
như thuyết tương đối của Einstein trong lịch sử khoa học. Toàn cầu hóa
càng sâu sắc bao nhiêu thì hệ tư tưởng sẽ càng phải bộc lộ tính khu trú
cá nhân của nó. Ở đây, xin lưu ý rằng cần phải phân biệt hệ giá trị với
nền văn hóa. Chúng ta đều biết rằng mỗi cộng đồng nhỏ đều có bản sắc
riêng với các giá trị văn hóa của mình. Nhưng khái niệm cộng đồng ngày
càng mở rộng nên sẽ có những tiêu chí văn hóa khác nhau, những nền văn
hóa khác nhau. Con người chứa trong mình nhiều hệ tiêu chuẩn văn hóa
khác nhau để điều chỉnh những đối tượng và quan hệ sinh hoạt khác nhau.
Cho nên có thể nói rằng không có chuẩn mực văn hóa cho sáu tỷ người,
trong khi đó nhân loại vẫn luôn luôn cần và trên thực tế vẫn tồn tại
những chuẩn mực chung. Dĩ nhiên, bên cạnh chuẩn mực chung còn có chuẩn
mực riêng.
Chuẩn mực riêng để phân biệt người này với người kia,
cộng đồng này với cộng đồng kia, còn chuẩn mực chung là thứ để con người
chung sống. Trong đời sống hằng ngày, chuẩn mực chung ngày càng cao lớn
lên cùng với sự mở rộng của khả năng giao lưu. Hiện nay, các quốc gia
đang phát triển mới chỉ đặt ra nhiệm vụ hội nhập về kinh tế mà chưa quan
tâm đến việc tạo cho con người năng lực hội nhập về mọi mặt.
Trong
bài Toàn cầu hóa về văn hóa chúng tôi đã đề cập đến những tác động khác
nhau của toàn cầu hoá. Ở đây chỉ xin nhắc lại rằng toàn cầu hóa về văn
hóa đang làm lan truyền trên khắp thế giới những giá trị phổ biến như
nhân quyền, dân quyền, dân chủ, tự do... đồng thời cũng làm thay đổi
tính chất của các quan hệ xã hội. Khi đó, các dân tộc, các cộng đồng
giao lưu với nhau thông qua các hệ giá trị, các quyền lợi và đặc biệt là
các tiêu chuẩn văn hóa. Trong quá trình đó, sự phổ biến các giá trị dân
chủ là xu thế tất yếu và toàn cầu hóa buộc các dân tộc, các tôn giáo
khác nhau phải ngồi lại cùng nhau tìm ra các tiêu chuẩn chung sống của
toàn nhân loại.
Kết luận
Như vậy, giá trị
của các hệ tư tưởng chỉ có tính chất tương đối, mang tính lịch sử. Tư
tưởng và hệ tư tưởng không phải là những giá trị bất biến, càng không
phải là những tín điều để tôn thờ, nó đang và sẽ bị thay thế bởi hệ giá
trị, là một hệ thống các tiêu chuẩn để quy định, định hướng và tổ chức
hành vi của con người trên phạm vi toàn cầu.
Thế giới đang thay
đổi từng ngày, từng giờ và toàn cầu hóa đang phổ biến khắp thế giới
những thước đo mới, những tiêu chuẩn mới. Những tiêu chuẩn chung đó
chính là cơ sở hình thành hệ giá trị toàn cầu hệ giá trị sẽ đóng vai trò
chi phối, kiểm soát hoạt động của con người. Vì thế, trong thời đại
ngày nay, nhiệm vụ của các chính thể là nắm bắt sự hình thành của hệ giá
trị và hướng sự phát triển của đất nước cho phù hợp với hệ giá trị đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét