Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014

CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ, 1966

(Được thông qua và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 2200 (XXI) ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Có hiệu lực ngày 23/3/1976, căn cứ theo điều 49. Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982)
LỜI NÓI ĐẦU
Các quốc gia thành viên Công ước này,
Xét rằng, theo những nguyên tắc nêu trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, việc công nhận phẩm giá vốn có và những quyền bình đẳng và bất di dịch của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại là nền tảng cho tự do, công lý và hoà bình trên thế giới;
Thừa nhận rằng, những quyền này bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của con người;
Thừa nhận rằng, theo Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người thì chỉ có thể đạt được lý tưởng về con người tự do không phải chịu sợ hãi và thiếu thốn, nếu tạo được những điều kiện để mỗi người có thể hưởng các quyền dân sự và chính trị cũng như các quyền kinh tế, xã hội văn hoá của mình;
Xét rằng, theo Hiến chương Liên Hợp Quốc, các quốc gia có nghĩa vụ thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do của con người;
Nhận thấy rằng, mỗi cá nhân, trong khi có nghĩa vụ đối với người khác và đối với cộng đồng của mình, phải có trách nhiệm phấn đấu cho việc thúc đẩy và tôn trọng các quyền đã được thừa nhận trong Công ước này;
Đã nhất trí những điều khoản sau đây:
PHẦN I
Điều 1.
1. Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá.
2. Vì lợi ích của mình, mọi dân tộc đều có thể tự do định đoạt tài nguyên thiên nhiên và của cải của mình, miễn là không làm phương hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ hợp tác kinh tế quốc tế mà dựa trên nguyên tắc các bên cùng có lợi và các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được phép tước đi những phương tiện sinh tồn của một dân tộc.
3. Các quốc gia thành viên Công ước này, kể cả các quốc gia có trách nhiệm quản lý các Lãnh thổ uỷ trị và các Lãnh thổ Quản thác, phải thúc đẩy việc thực hiện quyền tự quyết dân tộc và phải tôn trọng quyền đó phù hợp với các quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
PHẦN II
Điều 2.
1. Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng và bảo đảm cho mọi người trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền tài phán của mình các quyền đã được công nhận trong Công ước này, không có bất kỳ sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc địa vị khác.
2. Trong trường hợp quy định trên đây chưa được thể hiện bằng các biện pháp lập pháp hoặc các biện pháp khác, thì mỗi quốc gia thành viên Công ước cam kết sẽ tiến hành các bước cần thiết, phù hợp với trình tự pháp luật nước mình và những quy định của Công ước này, để ban hành pháp luật và những biện pháp cần thiết khác nhằm thực hiện các quyền được công nhận trong Công ước này.
3. Các quốc gia thành viên Công ước cam kết:
a) Bảo đảm rằng bất cứ người nào bị xâm phạm các quyền và tự do như được công nhận trong Công ước này đều nhận được các biện pháp khắc phục hiệu quả, cho dù sự xâm phạm này là do hành vi của những người thừa hành công vụ gây ra;
b) Bảo đảm rằng bất kỳ người nào có yêu cầu về các biện pháp khắc phục sẽ được các cơ quan tư pháp, hành pháp hoặc lập pháp có thẩm quyền hoặc bất kỳ cơ quan nào khác có thẩm quyền do hệ thống pháp luật của quốc gia quy định, xác định quyền lợi cho họ và sẽ mở rộng khả năng áp dụng các biện pháp khắc phục mang tính tư pháp;
c) Đảm bảo rằng các cơ quan có thẩm quyền sẽ thi hành các biện pháp khắc phục đã được đề ra.
Điều 3.
Các quốc gia thành viên Công ước này cam kết đảm bảo quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong việc thực hiện tất cả các quyền dân sự và chính trị mà Công ước đã quy định.
Điều 4.
1. Trong thời gian có tình trạng khẩn cấp xảy ra đe doạ sự sống còn của quốc gia và đã được chính thức công bố, các quốc gia thành viên có thể áp dụng những biện pháp hạn chế các quyền nêu ra trong Công ước này, trong chừng mực do nhu cầu khẩn cấp của tình hình, với điều kiện những biện pháp này không trái với những nghĩa vụ khác của quốc gia đó xuất phát từ luật pháp quốc tế và không chứa đựng bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội.
2. Điều này không được áp dụng để hạn chế các quyền quy định trong điều 6, 7, 8 (các khoản 1 và 2), 11, 15, 16 và 18.
3. Bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ước này khi sử dụng quyền được hạn chế nêu trong điều này đều phải thông báo ngay cho các quốc gia thành viên khác, thông qua trung gian là Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, về những quy định mà quốc gia đó đã hạn chế áp dụng và lý do của việc đó. Việc thông báo tiếp theo sẽ được thực hiện, cũng thông qua trung gian trên, vào thời điểm quốc gia chấm dứt việc áp dụng sự hạn chế đó.
Điều 5.
1. Không một quy định nào trong Công ước này có thể được giải thích với hàm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hay cá nhân nào được quyền tham gia hay tiến hành bất kỳ hành động nào nhằm phá hoạt bất kỳ quyền và tự do nào được Công ước này thừa nhận hoặc nhằm giới hạn những quyền và tự do đó quá mức Công ước này quy định.
2. Không được hạn chế hoặc huỷ bỏ bất kỳ quyền cơ bản nào của con người mà đã được công nhận hoặc hiện đang tồn tại ở bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ước này trên cơ sở luật, điều ước, các quy định pháp luật hoặc tập quán, với lý do là Công ước này không công nhận những quyền ấy hoặc công nhận ở một mức độ thấp hơn.
PHẦN III
Điều 6.
1. Mọi người đều có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tuỳ tiện.
2. Ở những nước mà hình phạt tử hình chưa được xoá bỏ thì chỉ được phép áp dụng án tử hình đối với những tội ác nghiêm trọng nhất, căn cứ vào luật pháp hiện hành tại thời điểm tội phạm được thực hiện và không được trái với những quy định của Công ước này và của Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng. Hình phạt tử hình chỉ được thi hành trên cơ sở bản án đã có hiệu lực pháp luật, do một toà án có thẩm quyền phán quyết.
3. Khi việc tước mạng sống của con người cấu thành tội diệt chủng, cần hiểu rằng không một quy định nào của điều này cho phép bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ước này, bằng bất kỳ cách nào, được giảm nhẹ bất kỳ nghĩa vụ nào mà họ phải thực hiện theo quy định của Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng.
4. Bất kỳ người nào bị kết án tử hình đều có quyền xin ân giảm hoặc xin thay đổi mức hình phạt. Việc ân xá, ân giảm hoặc chuyển đổi hình phạt tử hình có thể được áp dụng đối với mọi trường hợp.
5. Không được phép tuyên án tử hình với người phạm tội dưới 18 tuổi và không được thi hành án tử hình đối với phụ nữ đang mang thai.
6. Không một quy định nào trong điều này có thể được viện dẫn để trì hoãn hoặc ngăn cản việc xoá bỏ hình phạt tử hình tại bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ước.
Điều 7.
Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Đặc biệt, không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó.
Điều 8.
1. Không ai bị bắt làm nô lệ; mọi hình thức nô lệ và buôn bán nô lệ đều bị cấm.
2. Không ai bị bắt làm nô dịch.
3.a) Không ai bị yêu cầu phải lao động bắt buộc hoặc cưỡng bức;
b) Mục a, khoản 3 điều này không cản trở việc thực hiện lao động cưỡng bức theo bản án của một tòa án có thẩm quyền ở những nước còn áp dụng hình phạt tù kèm lao động cưỡng bức như một hình phạt đối với tội phạm.
c) Theo nghĩa của khoản này, thuật ngữ "lao động bắt buộc hoặc cưỡng bức" không bao gồm:
i) Bất kỳ công việc hoặc sự phục vụ nào không được nói tại điểm b, mà thông thường đòi hỏi một người đang bị giam giữ theo quyết định hợp pháp của toà án hoặc một người khi được trả tự do có điều kiện phải làm;
ii) Bất kỳ sự phục vụ nào mang tính chất quân sự và bất kỳ sự phục vụ quốc gia nào do luật pháp của một nước quy định đối với những người từ chối làm nghĩa vụ quân sự vì lý do lương tâm, trong trường hợp quốc gia đó cho phép từ chối thực hiện nghĩa vụ quân sự vì lý do lương tâm;
iii) Bất kỳ sự phục vụ nào được yêu cầu trong trường hợp khẩn cấp hoặc thiên tai đe doạ đến tính mạng hoặc đời sống của cả cộng đồng;
iv) Bất kỳ công việc hoặc sự phục vụ nào là một phần của các nghĩa vụ dân sự thông thường.
Điều 9.
1. Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã quy định.
2. Bất cứ người nào bị bắt giữ đều phải được thông báo vào lúc bị bắt về những lý do họ bị bắt và phải được thông báo không chậm trễ về sự buộc tội đối với họ.
3. Bất cứ người nào bị bắt hoặc bị giam giữ vì một tội hình sự phải được sớm đưa ra toà án hoặc một cơ quan tài phán có thẩm quyền thực hiện chức năng tư pháp và phải được xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc được trả tự do. Việc tạm giam một người trong thời gian chờ xét xử không được đưa thành nguyên tắc chung, nhưng việc trả tự do cho họ có thể kèm theo những điều kiện để bảo đảm họ sẽ có mặt tại toà án để xét xử vào bất cứ khi nào và để thi hành án nếu bị kết tội.
4. Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử trước toà án, nhằm mục đích để toà án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả lại tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp pháp.
5. Bất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp đều có quyền được yêu cầu bồi thường.
Điều 10.
1. Những người bị tước tự do phải được đối xử nhân đạo với sự tôn trọng nhân phẩm vốn có của con người.
2.a) Trừ những hoàn cảnh đặc biệt, bị can, bị cáo phải được giam giữ tách biệt với những người đã bị kết án và phải được đối xử theo chế độ riêng, phù hợp với quy chế dành cho những người bị tạm giam;
b) Những bị can chưa thành niên phải được giam giữ tách riêng khỏi người lớn và phải được đưa ra xét xử càng sớm càng tốt.
3. Việc đối xử với tù nhân trong hệ thống trại giam nhằm mục đích chính yếu là cải tạo và đưa họ trở lại xã hội. Những phạm nhân vị thành niên phải được tách riêng khỏi người lớn và phải được đối xử phù hợp với lứa tuổi và tư cách pháp lý của họ.
Điều 11.
Không ai bị bỏ tù chỉ vì lý do không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng.
Điều 12.
1. Bất cứ ai cư trú hợp pháp trên lãnh thổ của một quốc gia đều có quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú trong phạm vi lãnh thổ quốc gia đó.
2. Mọi người đều có quyền tự do rời khỏi bất kỳ nước nào, kể cả nước mình .
3.Những quyền trên đây sẽ không phải chịu bất kỳ hạn chế nào, trừ những hạn chế do luật định và là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội hoặc các quyền tự do của người khác, và phải phù hợp với những quyền khác được Công ước này công nhận.
4. Không ai bị tước đoạt một cách tuỳ tiện quyền được trở về nước mình
Điều 13.
Một người nước ngoài cư trú hợp pháp trên lãnh thổ một quốc gia thành viên Công ước chỉ có thể bị trục xuất khỏi nước đó theo quyết định phù hợp pháp luật, và trừ trường hợp có yêu cầu khác xuất phát từ lý do chính đáng về an ninh quốc gia; người bị trục xuất phải được phép đệ trình những lý lẽ phản đối việc trục xuất, được yêu cầu nhà chức trách có thẩm quyền, hoặc một người hoặc những người mà nhà chức trách có thẩm quyền đặc biệt cử ra, xem xét lại trường hợp của mình, và được có đại diện khi trường hợp của mình được xem xét lại.
Điều 14.
1. Mọi người đều bình đẳng trước các toà án và cơ quan tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự. Báo chí và công chúng có thể không được phép tham dự toàn bộ hoặc một phần của phiên toà vì lý do đạo đức, trật tự công cộng hoặc an ninh quốc gia trong một xã hội dân chủ, hoặc vì lợi ích cuộc sống riêng tư của các bên tham gia tố tụng, hoặc trong chừng mực cần thiết, theo ý kiến của toà án, trong những hoàn cảnh đặc biệt mà việc xét xử công khai có thể làm phương hại đến lợi ích của công lý. Tuy nhiên mọi phán quyết trong vụ án hình sự hoặc vụ kiện dân sự phải được tuyên công khai, trừ trường hợp vì lợi ích của người chưa thành niên hay vụ việc liên quan đến những tranh chấp hôn nhân hoặc quyền giám hộ trẻ em.
2. Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật.
3. Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu sau đây:
a) Được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình;
b) Có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn;
c) Được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý;
d) Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông báo về quyền này nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả;
e) Được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những nhân chứng buộc tội mình, và được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tới phiên toà và thẩm vấn họ tại toà với những điều kiện tương tự như đối với những người làm chứng buộc tội mình;
f) Được có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu hoặc không nói được ngôn ngữ sử dụng trong phiên toà;
g) Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội.
4. Tố tụng áp dụng đối với những người chưa thành niên phải xem xét tới độ tuổi của họ và mục đích thúc đẩy sự phục hồi nhân cách của họ.
5. Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu toà án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật.
6. Khi một người bị kết án về một tội hình sự bởi một quyết định chung thẩm và sau đó bản án bị huỷ bỏ, hoặc người đó được tha trên cơ sở tình tiết mới hoặc phát hiện mới cho thấy rõ ràng có sự xét xử oan, thì người đã phải chịu hình phạt theo bản án trên, theo luật, có quyền yêu cầu được bồi thường, trừ trường hợp cơ quan tố tụng chứng minh rằng việc sự thật không được làm sáng tỏ tại thời điểm đó hoàn toàn hoặc một phần là do lỗi của người bị kết án gây ra.
7. Không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm mà người đó đã bị kết án hoặc đã được tuyên trắng án phù hợp với pháp luật và thủ tục tố tụng hình sự của mỗi nước.
Điều 15.
1. Không ai bị coi là phạm tội vì một hành động hoặc không hành động mà không cấu thành tội phạm theo pháp luật quốc gia hoặc pháp luật quốc tế tại thời điểm thực hiện hành vi đó. Cũng không được áp dụng hình phạt nặng hơn hình phạt đã ấn định tại thời điểm hành vi phạm tội được thực hiện. Nếu sau khi xảy ra hành vi phạm tội mà luật pháp quy định hình phạt nhẹ hơn với hành vi đó, thì người phạm tội được hưởng mức hình phạt nhẹ hơn.
2. Không một quy định nào trong điều này cản trở việc xét xử hoặc trừng phạt bất kỳ người nào vì bất kỳ hành động hoặc không hành động nào của họ mà tại thời điểm thực hiện được coi là tội phạm theo những nguyên tắc pháp luật chung đã được cộng đồng các quốc gia công nhận.
Điều 16.
Mọi người đều có quyền được công nhận là thể nhân trước pháp luật ở mọi nơi.
Điều 17.
1. Không ai bị can thiệp một cách tuỳ tiện hoặc bất hợp pháp vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín.
2. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những can thiệp hoặc xâm phạm như vậy.
Điều 18.
1. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng.
2. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ.
3. Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi "pháp" luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác.
4. Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng quyền tự do của các bậc cha mẹ, và của những người giám hộ hợp pháp nếu có, trong việc giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái họ theo ý nguyện của riêng họ.
Điều 19.
1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp.
2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ.
3. Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để:
a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác,
b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội.
Điều 20.
1. Mọi hình thức tuyên truyền cho chiến tranh đều bị pháp luật nghiêm cấm.
2. Mọi chủ trương gây hằn thù dân tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo để kích động sự phân biệt đối xử về chủng tộc, sự thù địch, hoặc bạo lực đều phải bị pháp luật nghiêm cấm.
Điều 21.
Quyền hội họp hoà bình phải được công nhận. Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khỏe và đạo đức xã hội hoặc bảo vệ quyền và tự do của những người khác.
Điều 22.
1. Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình.
2. Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác. Điều này không ngăn cản việc đặt ra những hạn chế hợp pháp trong việc thực hiện quyền này đối với những người làm việc trong các lực lượng vũ trang và cảnh sát.
3. Không một quy định nào của điều này cho phép các quốc gia thành viên đã tham gia Công ước về tự do lập hội và bảo vệ quyền lập hội năm 1948 của Tổ chức Lao động quốc tế được tiến hành những biện pháp lập pháp hoặc hành pháp làm phương hại đến những bảo đảm nêu trong Công ước đó.
Điều 23.
1. Gia đình là một tế bào cơ bản và tự nhiên của xã hội, cần phải được nhà nước và xã hội bảo hộ.
2. Quyền kết hôn và lập gia đình của nam và nữ đến tuổi kết hôn phải được thừa nhận.
3. Không được tổ chức việc kết hôn nếu không có sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cặp vợ chồng tương lai.
4. Các quốc gia thành viên Công ước phải tiến hành các biện pháp thích hợp để bảo đảm sự bình đẳng về quyền và trách nhiệm của vợ và chồng trong suốt thời gian chung sống và khi ly hôn. Trong trường hợp ly hôn, phải có quy định bảo đảm sự bảo hộ cần thiết với con cái.
Điều 24.
1. Mọi trẻ em, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản hoặc dòng dõi đều có quyền được hưởng những biện pháp bảo hộ của gia đình, xã hội và nhà nước cần thiết cho người chưa thành niên.
2. Mọi trẻ em đều phải được đăng ký khai sinh ngay sau khi ra đời và phải có tên gọi.
3. Mọi trẻ em đều có quyền có quốc tịch.
Điều 25.
Mọi công dân, không có bất kỳ sự phân biệt nào như đã nêu ở điều 2 và không có bất kỳ sự hạn chế bất hợp lý nào, đều có quyền và cơ hội để:
a) Tham gia điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại diện do họ tự do lựa chọn;
b) Bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, nhằm đảm bảo cho cử tri được tự do bày tỏ ý nguyện của mình;
c) Được tiếp cận với các dịch vụ công cộng ở đất nước mình trên cơ sở bình đẳng.
Điều 26.
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Về mặt này, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử và đảm bảo cho mọi người sự bảo hộ bình đẳng và có hiệu quả chống lại những phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc các địa vị khác.
Điều 27.
Ở những quốc gia có nhiều nhóm thiểu số về sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ, những cá nhân thuộc các nhóm thiểu số đó, cùng với những thành viên khác của cộng đồng mình, không tbị khước từ quyền có đời sống văn hoá riêng, quyền được theo và thực hành tôn giáo riêng, hoặc quyền được sử dụng ngôn ngữ riêng của họ.
PHẦN IV
Điều 28.
1. Một Uỷ ban Quyền con người sẽ được thành lập (sau đây gọi là Uỷ ban). Uỷ ban gồm 18 thành viên và có những chức năng như quy định dưới đây:
2. Thành viên Uỷ ban là công dân của các quốc gia thành viên Công ước này và phải là những người có phẩm chất đạo đức tốt, được thừa nhận là có năng lực trong lĩnh vực về quyền con người, có xem xét tới lợi ích từ việc tham gia của những người có kinh nghiệm pháp lý.
3. Các thành viên của Uỷ ban sẽ được bầu ra để làm việc với tư cách cá nhân.
Điều 29.
Các thành viên của Uỷ ban được bầu bằng cách bỏ phiếu kín từ danh sách những người có đủ tiêu chuẩn nêu ở điều 28 và được các quốc gia thành viên Công ước đề cử.
1. Mỗi quốc gia thành viên Công ước có thể đề cử không quá hai người. Những người này phải là công dân của quốc gia đề cử.
2. Một người đã được đề cử vẫn có thể được tái đề cử.
Điều 30.
1. Lần bầu cử đầu tiên sẽ được tiến hành không quá 6 tháng kể từ ngày Công ước có hiệu lực.
2. Ít nhất bốn tháng trước ngày tiến hành mỗi cuộc bầu cử vào Uỷ ban, ngoại trừ cuộc bầu cử nhằm bổ sung ghế trống quy định ở điều 34, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ gửi thư tới các quốc gia thành viên Công ước để mời đề cử người vào Uỷ ban trong khoảng thời hạn ba tháng.
3. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ lập danh sách theo thứ tự bảng chữ cái La-tinh tên những người đã được đề cử, kèm theo tên các quốc gia thành viên đã đề cử những người đó, và thông báo danh sách này cho các quốc gia thành viên Công ước chậm nhất một tháng trước thời hạn mỗi cuộc bầu cử.
4. Việc bầu cử các thành viên của Uỷ ban được thực hiện trong một phiên họp gồm các quốc gia thành viên Công ước này do Tổng thư ký Liên Hợp Quốc triệu tập tại trụ sở Liên Hợp Quốc. Phiên họp này phải có tối thiểu 2/3 tổng số quốc gia thành viên Công ước tham dự; những người được bầu vào Uỷ ban là những ứng cử viên đạt số phiếu cao nhất và phải thu được đa số tuyệt đối trong số phiếu của đại diện các quốc gia thành viên có mặt và bỏ phiếu.
Điều 31.
1. Mỗi quốc gia chỉ có thể có một công dân là thành viên của Uỷ ban.
2. Việc bầu cử các thành viên của Uỷ ban phải tính đến sự phân bố công bằng về mặt địa lý và sự đại diện của các nền văn hoá khác nhau, cũng như các hệ thống pháp lý chủ yếu.
Điều 32.
1. Các thành viên của Uỷ ban được bầu với nhiệm kỳ bốn năm. Họ có thể được bầu lại nếu được tái đề cử. Tuy nhiên, nhiệm kỳ của chín thành viên trong đó số các thành viên được bầu lần đầu tiên sẽ chấm dứt sau hai năm; ngay sau cuộc bầu cử đầu tiên, tên của chín thành viên này sẽ do Chủ tịch của phiên họp quy định tại khoản 4 điều 30 chọn bằng cách rút thăm.
2. Khi chấm dứt nhiệm kỳ, các cuộc bầu cử lại được tiến hành theo những quy định tại các điều khoản nêu trên của Công ước này.
Điều 33.
1. Nếu một thành viên của Uỷ ban ngừng thực hiện các chức năng của mình vì bất cứ lý do nào, ngoại trừ sự vắng mặt có tính chất tạm thời, thì theo ý kiến nhất trí của các thành viên khác, chủ tịch Uỷ ban sẽ thông báo cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc biết để tuyên bố ghế của thành viên đó bị trống.
2. Trong trường hợp một thành viên của Uỷ ban bị chết hoặc từ chức, Chủ tịch Uỷ ban sẽ thông báo ngay cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc biết để tuyên bố ghế của thành viên đó bị trống, kể từ ngày chết hoặc ngày việc từ chức có hiệu lực.
Điều 34.
1. Khi có một tuyên bố ghế trống theo điều 33, và nếu nhiệm kỳ của thành viên cần thay thế chưa hết hạn trong vòng sáu tháng kể từ ngày tuyên bố ghế bị trống, thì Tổng thư ký Liên Hợp Quốc thông báo cho các quốc gia thành viên Công ước để trong thời hạn hai tháng, các quốc gia thành viên có thể đề cử người theo điều 29 nhằm bổ sung cho ghế trống đó.
2. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ lập một danh sách theo thứ tự chữ cái La-tinh tên những người được đề cử và thông báo danh sách này cho các quốc gia thành viên Công ước. Việc bầu bổ sung phải được tiến hành theo những quy định tương ứng ở phần này của Công ước.
3. Thành viên của Uỷ ban được bầu vào ghế trống theo điều 33 sẽ làm việc cho tới hết phần nhiệm kỳ còn lại của thành viên đã bỏ trống ghế phù hợp với quy định của điều đó.
Điều 35.
Các thành viên của Uỷ ban, với sự chấp thuận của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, sẽ được nhận lương từ các nguồn tài chính của Liên Hợp Quốc, theo các thể thức và điều kiện do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ấn định, căn cứ vào tầm quan trọng của trách nhiệm mà họ nắm giữ trong Uỷ ban.
Điều 36.
Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ cung cấp cho Uỷ ban nhân sự và phương tiện vật chất cần thiết cho việcthực hiện hiệu quả các chức năng của Uỷ ban theo Công ước này.
Điều 37.
1. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ triệu tập phiên họp đầu tiên của Uỷ ban tại trụ sở Liên Hợp Quốc.
2. Sau phiên họp đầu tiên, Uỷ ban sẽ họp theo lịch trình quy định trong quy tắc về thủ tục mà Uỷ ban thiết lập.
3. Thông thường, Uỷ ban sẽ họp ở trụ sở chính của Liên Hợp Quốc ở Nữu- ước, hoặc ở văn phòng của Liên Hợp Quốc tại Giơ-ne-vơ.
Điều 38.
Mỗi thành viên của Uỷ ban, trước khi nhận nhiệm vụ, phải tuyên thệ trước Uỷ ban là sẽ thực hiện chức năng của mình một cách vô tư và công tâm.
Điều 39.
1.Uỷ ban bầu ra các quan chức của mình với nhiệm kỳ hai năm. Các quan chức này có thể được bầu lại.
2. Uỷ ban sẽ đặt ra quy tắc về thủ tục của mình; những quy tắc này, không kể những nội dung khác, phải gồm những quy định sau đây,:
a) Số đại biểu cần thiết cho mỗi phiên họp là 12 thành viên;
b) Quyết định của Uỷ ban phải được thông qua với đa số phiếu của các thành viên có mặt.
Điều 40.
1. Các quốc gia thành viên Công ước cam kết sẽ đệ trình báo cáo về những biện pháp mà mình đã thông qua để thực hiện các quyền được ghi nhận trong Công ước này, và về những tiến bộ đã đạt được trong việc thực hiện các quyền đó:
a) Trong thời hạn một năm kể từ ngày Công ước này có hiệu lực đối với quốc gia thành viên liên quan;
b) Và sau đó, mỗi khi có yêu cầu của Uỷ ban.
2. Tất cả các báo cáo sẽ được đệ trình lên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc để chuyển cho Ủy ban xem xét. Các báo cáo phải nêu rõ những yếu tố và khó khăn, nếu có, ảnh hưởng tới việc thực hiện Công ước này.
3. Sau khi tham khảo ý kiến của Uỷ ban, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc có thể gửi cho các tổ chức chuyên môn liên quan bản sao các phần của các báo cáo liên quan tới những lĩnh vực thuộc thẩm quyền của các tổ chức đó.
4. Uỷ ban sẽ nghiên cứu những báo cáo do các quốc gia thành viên Công ước trình lên. Uỷ ban sẽ gửi cho các quốc gia thành viên báo cáo của mình và những bình luận chung nếu xét thấy thích hợp. Uỷ ban cũng có thể chuyển cho Hội đồng Kinh tế và Xã hội những bình luận này kèm theo bản sao các báo cáo mà Uỷ ban nhận được từ các quốc gia thành viên Công ước.
5. Các quốc gia thành viên Công ước có thể đệ trình lên Uỷ ban những nhận xét về bất kỳ bình luận nào được đưa ra theo khoản 4 điều này.
Điều 41.
1. Mỗi quốc gia thành viên Công ước này đều có quyền tuyên bố theo điều này, vào bất kỳ thời điểm nào, là quốc gia đó công nhận thẩm quyền của Uỷ ban được tiếp nhận và xem xét những thông cáo theo đó một quốc gia thành viên khiếu nại rằng một quốc gia thành viên khác không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ theo Công ước. Những thông cáo theo điều này chỉ được Uỷ ban tiếp nhận và xem xét nếu đó là của quốc gia thành viên đã tuyên bố công nhận thẩm quyền của Uỷ ban về việc này. Uỷ ban không tiếp nhận thông cáo nếu nó liên quan đến một quốc gia thành viên chưa có tuyên bố như vậy. Các thông cáo được tiếp nhận theo điều này sẽ được giải quyết theo thủ tục sau đây:
a) Nếu một quốc gia thành viên Công ước cho rằng một quốc gia thành viên khác không thực hiện những quy định của Công ước, thì có thể gửi một thông cáo bằng văn bản lưu ý quốc gia thành viên ấy về vấn đề đó. Trong thời gian ba tháng, kể từ ngày nhận được thông cáo, quốc gia nhận được thông cáo phải có hồi đáp giải thích cho quốc gia gửi thông cáo, hoặc phải có những hình thức khác bằng văn bản để làm sáng tỏ vấn đề, trong đó đề cập đến, trong chừng mực có thể và thích hợp, những thủ tục trong nước cùng những biện pháp khắc phục mà quốc gia được thông cáo đã, đang hoặc sẵn sàng thực hiện để giải quyết vấn đề.
b) Nếu trong thời gian sáu tháng kể từ ngày nhận được thông cáo đầu tiên mà vấn đề không được giải quyết một cách thoả đáng đối với cả hai bên liên quan, thì một trong hai quốc gia đó có quyền đưa vấn đề ra Uỷ ban bằng cách gửi thông báo cho Uỷ ban và cho quốc gia kia.
c) Uỷ ban chỉ xem xét vấn đề sau khi đã chắc chắn rằng mọi biện pháp khắc phục sẵn có trong nước đều đã được quốc gia nhận thông cáo áp dụng triệt để, phù hợp với các nguyên tắc đã được thừa nhận chung của luật pháp quốc tế. Quy định này không áp dụng trong trường hợp việc tiến hành những biện pháp khắc phục bị kéo dài một cách vô lý.
d) Uỷ ban sẽ họp kín khi xem xét những thông cáo theo điều này.
e) Căn cứ theo quy định tại mục (c), Uỷ ban sẽ giúp đỡ các quốc gia thành viên liên quan giải quyết vấn đề một cách thân thiện, trên cơ sở tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người như đã được Công ước này công nhận;
f) Khi xem xét các vấn đề được chuyển đến, Uỷ ban có thể yêu cầu các quốc gia liên quan nêu tại mục (b) cung cấp bất kỳ thông tin liên quan nào;
g) Các quốc gia liên quan nêu tại mục (b) có quyền có đại diện khi vấn đề được đưa ra xem xét tại Uỷ ban và có thể trình bày quan điểm bằng miệng và/hoặc bằng văn bản;
h) Trong vòng 12 tháng kể từ ngày nhận được thông báo theo mục (b), Uỷ ban sẽ đệ trình một báo cáo:
i) Nếu đạt được một giải pháp theo quy định tại mục (e), Uỷ ban sẽ giới hạn báo cáo trong một tuyên bố vắn tắt về sự việc và giải pháp đã đạt được;
ii) Nếu không đạt được một giải pháp theo quy định tại mục (e), Uỷ ban sẽ giới hạn báo cáo trong một tuyên bố vắn tắt về sự việc. Các ý kiến bằng văn bản và biên bản ghi những lời phát biểu do các quốc gia thành viên liên quan đưa ra sẽ được đính kèm báo cáo.
Trong mọi trường hợp, báo cáo sẽ được gửi cho các quốc gia thành viên liên quan.
2. Quy định của điều này sẽ có hiệu lực khi mười quốc gia thành viên Công ước ra tuyên bố theo khoản 1 điều này. Những tuyên bố đó sẽ được các quốc gia thành viên nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc và Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ gửi các bản sao cho các quốc gia thành viên khác. Tuyên bố có thể được rút lại vào bất kỳ lúc nào bằng việc thông báo cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Việc rút lại tuyên bố không cản trở việc xem xét bất kỳ vấn đề nào nêu trong thông cáo đã được chuyển cho Ủy ban theo điều này; không một thông cáo nào của bất kỳ quốc gia thành viên nào được tiếp nhận sau khi Tổng thư ký đã nhận được thông báo rút lại tuyên bố, trừ khi quốc gia thành viên liên quan đưa ra tuyên bố mới.
Điều 42.
1.a) Nếu một vấn đề đã chuyển đến Uỷ ban theo điều 41 không được giải quyết một cách thoả đáng với các quốc gia thành viên liên quan, thì với sự thoả thuận trước của các quốc gia thành viên đó, Uỷ ban có thể chỉ định một Tiểu ban hoà giải tạm thời (dưới đây được gọi là Tiểu ban). Tiểu ban sẽ giúp đỡ các quốc gia thành viên liên quan tìm kiếm một giải pháp hoà giải cho vấn đề, trên cơ sở tôn trọng Công ước này.
b) Tiểu ban này sẽ gồm năm uỷ viên được sự chấp thuận của các quốc gia thành viên liên quan. Nếu trong thời hạn ba tháng các quốc gia thành viên liên quan không đạt được thoả thuận về toàn bộ hay một phần thành viên của Tiểu ban thì số uỷ viên chưa được nhất trí sẽ được Uỷ ban bầu bằng bỏ phiếu kín với đa số 2/3 các thành viên Uỷ ban.
2. Các uỷ viên của Tiểu ban làm việc với tư cách cá nhân. Các uỷ viên không được là công dân của các quốc gia thành viên liên quan, hoặc của một quốc gia không tham gia Công ước, hoặc của một quốc gia thành viên chưa có tuyên bố nêu ở điều 41.
3. Tiểu ban bầu ra chủ tịch và thông qua quy tắc về thủ tục của mình.
4. Thông thường, Tiểu ban triệu tập các cuộc họp của mình ở trụ sở Liên Hợp Quốc ở Nữu-ước, hoặc ở Văn phòng Liên Hợp Quốc ở Giơ-ne-vơ; tuy nhiên, cũng có thể họp ở những nơi thích hợp khác do Tiểu ban quyết định sau khi tham khảo ý kiến của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc và của các quốc gia thành viên liên quan.
5. Bộ phận hành chính được cung cấp theo điều 36 cũng sẽ hỗ trợ công việc cho Tiểu ban được chỉ định ở điều này.
6. Những thông tin do Uỷ ban nhận được và xem xét sẽ được chuyển cho Tiểu ban và Tiểu ban có thể yêu cầu các quốc gia thành viên liên quan cung cấp cho mình bất kỳ thông tin nào khác có liên quan.
7. Sau khi đã xem xét kỹ vấn đề nhưng không muộn hơn mười hai tháng kể từ khi vấn đề được chuyển đến Tiểu ban, Tiểu ban sẽ gửi một báo cáo cho Chủ tịch Uỷ ban để thông báo cho các quốc gia liên quan:
a) Nếu Tiểu ban không thể hoàn thành việc xem xét vấn đề trong mười hai tháng, thì Tiểu ban sẽ phải có một tuyên bố vắn tắt về hiện trạng vấn đề mà Tiểu ban đang xem xét:
b) Nếu đã đạt được một giải pháp hoà giải giữa các bên liên quan trên cơ sở tôn trọng các quyền con người được công nhận trong Công ước này thì Tiểu ban báo cáo vắn tắt về sự việc và giải pháp đã đạt được;
c) Nếu không đạt được một giải pháp theo quy định tại mục (b) thì Tiểu ban sẽ nêu trong báo cáo những ý kiến của mình về mọi sự việc liên quan đến những tranh chấp của các quốc gia thành viên liên quan, cũng như nhận định của Tiểu ban về các khả năng có thể đạt được một giải pháp hoà giải cho vấn đề. Báo cáo này cũng bao gồm những ý kiến bằng văn bản và biên bản ghi những phát biểu do đại diện của các quốc gia thành viên liên quan đưa ra;
d) Nếu báo cáo của Tiểu ban được đưa ra theo mục (c), thì các quốc gia thành viên liên quan, trong thời hạn ba tháng sau khi nhận được báo cáo, phải thông báo cho Chủ tịch Uỷ ban biết là họ chấp nhận hay không chấp nhận nội dung báo cáo của Tiểu ban.
8. Những quy định tại điều này sẽ không làm phương hại đến trách nhiệm của Uỷ ban nêu ở điều 41.
9. Mọi chi phí cho các uỷ viên của Tiểu ban được phân bổ đều cho các quốc gia thành viên liên quan, theo bản thống kê của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
10. Nếu cần thiết, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ thanh toán chi phí cho các thành viên của Tiểu ban trước khi các quốc gia thành viên liên quan hoàn trả theo quy định ở khoản 9 điều này.
Điều 43.
Các uỷ viên của Uỷ ban và uỷ viên của Tiểu ban hoà giải lâm thời được chỉ định theo điều 42 được hưởng những thuận lợi và quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho các chuyên gia thừa hành công vụ của Liên Hợp Quốc như đã nêu trong những phần liên quan của Công ước về quyền ưu đãi và miễn trừ của Liên Hợp Quốc.
Điều 44.
Việc áp dụng những quy định thi hành Công ước này sẽ không làm ảnh hưởng đến những thủ tục trong lĩnh vực quyền con người đã được những văn kiện pháp lý và các công ước của Liên Hợp Quốc, cũng như của các tổ chức chuyên môn của Liên Hợp Quốc quy định, và cũng sẽ không làm cản trở các quốc gia thành viên Công ước này sử dụng những thủ tục khác để giải quyết tranh chấp, phù hợp với các thoả thuận quốc tế chung hoặc đặc biệt đang có hiệu lực giữa các quốc gia đó.
Điều 45.
Uỷ ban sẽ trình lên Đại hội đồng Liên Hợp Quốc báo cáo hàng năm về hoạt động của mình thông qua Hội đồng Kinh tế và Xã hội.
PHẦN V
Điều 46.
Không một quy định nào của Công ước này có thể được giải thích để làm phương hại đến những quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc và điều lệ của các tổ chức chuyên môn mà quy định trách nhiệm của các cơ quan và tổ chức chuyên môn của Liên Hợp Quốc về các vấn đề được đề cập trong Công ước này.
Điều 47.
Không một quy định nào của Công ước này có thể được giải thích để làm phương hại đến quyền đương nhiên của mọi dân tộc được hưởng và sử dụng một cách đầy đủ và tự do mọi nguồn của cải và tài nguyên thiên nhiên của họ.
PHẦN VI
Điều 48.
1. Công ước này để ngỏ cho bất kỳ quốc gia quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, hoặc thành viên của bất kỳ tổ chức chuyên môn nào của Liên Hợp Quốc, hoặc cho bất kỳ quốc gia thành viên nào của Quy chế Toà án Công lý quốc tế, cũng như cho bất kỳ quốc gia nào khác được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc mời tham gia Công ước này, ký kết.
2. Công ước này đòi hỏi phải được phê chuẩn. Các văn kiện phê chuẩn sẽ được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
3. Công ước này để ngỏ cho tất cả các quốc gia nêu ở khoản 1 điều này gia nhập.
4. Việc gia nhập sẽ có hiệu lực khi văn kiện gia nhập được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc .
5. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ thông báo cho tất cả các quốc gia đã ký hoặc gia nhập Công ước này về việc nộp lưu chiểu của từng văn kiện phê chuẩn hay gia nhập.
Điều 49.
1. Công ước này sẽ có hiệu lực ba tháng sau ngày văn kiện phê chuẩn hoặc văn kiện gia nhập thứ 35 được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
2. Đối với quốc gia nào phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước này sau ngày văn kiện phê chuẩn hoặc gia nhập thứ 35 đã được lưu chiểu, thì Công ước này sẽ có hiệu lực sau ba tháng kể từ ngày nộp lưu chiểu văn kiện phê chuẩn hoặc văn kiện gia nhập của quốc gia đó.
Điều 50.
Những quy định của Công ước này được áp dụng đối với trên mọi vùng lãnh thổ cấu thành của các quốc gia liên bang mà không có bất kỳ hạn chế hoặc ngoại lệ nào.
Điều 51.
1. Các quốc gia thành viên Công ước có thể đề xuất sửa đổi Công ước và phải gửi đề xuất đó đến Tổng thư ký Liên Hợp Quốc. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ chuyển mọi đề xuất sửa đổi cho các quốc gia thành viên Công ước, cùng với yêu cầu cho Tổng thư ký biết liệu họ có muốn triệu tập một hội nghị các quốc gia thành viên để xem xét và thông qua những đề xuất sửa đổi đó hay không. Nếu như có tối thiểu 1/3 số quốc gia thành viên Công ước tuyên bố tán thành triệu tập hội nghị nói trên thì Tổng thư ký sẽ triệu tập hội nghị dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc. Mọi sửa đổi được thông qua với đa số số phiếu của các quốc gia thành viên có mặt và bỏ phiếu tại hội nghị sẽ được trình lên Đại hội đồng Liên Hợp Quốc để chuẩn y.
2. Những sửa đổi sẽ có hiệu lực khi được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc chuẩn y, và được 2/3 các quốc gia thành viên Công ước này chấp thuận theo thủ tục pháp luật của mình.
3. Khi có hiệu lực, những sửa đổi sẽ chỉ ràng buộc những quốc gia chấp nhận sửa đổi. Các quốc gia thành viên khác chỉ bị ràng buộc bởi những quy định của Công ước này và bất kỳ sửa đổi nào mà trước đó họ đã chấp nhận.
Điều 52.
1. Mặc dù đã có những thông báo ở khoản 5 điều 48, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ vẫn thông báo cho tất cả các quốc gia nêu ở khoản 1 điều 48 những sự kiện sau đây:
a) Việc ký, phê chuẩn và gia nhập Công ước này theo Điều 48;
b) Ngày Công ước này có hiệu lực theo Điều 49 và ngày các sửa đổi, bổ sung có hiệu lực theo Điều 51.
Điều 53.
1. Công ước này được làm bằng tiếng A-rập, tiếng Trung, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây Ban Nha, các văn bản đều có giá trị như nhau và sẽ được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
2. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc sẽ chuyển các bản sao có chứng thực của Công ước này tới tất cả các quốc gia nêu trong điều 48.

Chú thích: thuật ngữ theo qui định bởi luật (do luật định)(do luật của quốc hội ban hành)
theo qui định của pháp luật (các loại văn bản qui phạm pháp luật qui định)
http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=12817
Điều 5.
1. Không một quy định nào trong Công ước này có thể được giải thích với hàm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hay cá nhân nào được quyền tham gia hay tiến hành bất kỳ hành động nào nhằm phá hoạt bất kỳ quyền và tự do nào được Công ước này thừa nhận hoặc nhằm giới hạn những quyền và tự do đó quá mức Công ước này quy định.

... mọi hạn chế phải được qui định bởi luật với điều kiện giải trình rất ngặt nghèo ? từ law (luật do quốc hội ban hành) có thể bị dịch sai có chủ đích thành pháp luật ( cấp ubnd xã cũng có thể ban hành) ?

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

Nguyên tắc suy đoán vô tội

BRANDCO LAWFIRM - Ngay từ thời La mã cổ đại người ta đã khẳng định trách nhiệm chứng minh thuộc về bên tố cáo, thuộc bên khẳng định chứ không phải bên phủ định, những tư tưởng này chỉ được các quan toà áp dụng trong tố tụng dân sự. Đây được coi là cội nguồn của nguyên tắc suy đoán vô tội (presomtion of innonce) 1


Tuy nhiên, chỉ đến khi cách mạng tư sản Pháp 1789 bùng nổ, tư tưởng này mới được mới được ghi nhận như là một nguyên tắc của pháp luật. Tuyên ngôn nhân quyền 1789 long trọng tuyên bố: Mọi người được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội . Nếu xét thấy cần thiết phải bắt giữ thì mọi sự cưỡng bức vượt quá mức cần thiết cho phép đều bị pháp luật xử lý nghiêm khắc2. Suy đoán vô tội đã đựợc luật hình sự của nhiều nhà nước coi là nguyên tắc của tố tụng hình sự, được đánh giá là thành tựu vĩ đại của văn minh pháp lý trong việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. Hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm về nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội, nhưng theo chúng tôi suy đoán vô tội bao gồm những nội dung sau đây:
-Người bị tình nghi, bị can, bị cáo được coi là không có tội cho đến khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Toà án.
- Nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên buộc tội, người bị tình nghi, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh sự vô tội của mình.
- Mọi ghi ngờ về pháp luật và chứng cứ phải được giải thích có lợi cho người bị tình nghi, bị can, bị cáo.
Cũng giống như nhiều nguyên tắc khác của pháp luật, suy đoán vô tội chỉ trở thành nguyên tắc của luật tố tụng hình sự trong giai đoạn lịch sử nhất định, trong một kiểu Nhà nước nhất định. Trong một nhà nước mà quyền con người bị chà đạp, khi tôn giáo, thần quyền còn thống trị thì những tư tưởng văn minh và tiến bộ như suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự không có cơ hội thể hiện chứ chưa nói đến trở thành nguyên tắc pháp luật. Ngược lại, xã hội phát triển đến trình độ cao hơn, khi quyền con người được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ thì những tư tưởng pháp lý tiến bộ như suy đoán vô tội tất yếu sẽ được ghi nhận và bảo đảm thực hiện không chỉ trên phương diện lập pháp mà còn cả trên thực tế.   
Chiến lược cải cách tư pháp trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật trong đó có hệ thống pháp luật tố tụng hình sự cho phù hợp. Những tư tưởng, nguyên tắc pháp luật đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận như là giá trị to lớn của văn minh nhân loại phải được ghi nhận trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Chính vì vậy có thể nói  ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội là đòi hỏi tất yếu của luật tố tụng hình sự trong nhà nước pháp quyền.
Trước khi có Bộ luật TTHS 1989, trong các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật, những nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội cũng được thừa nhận ở mức độ này hay mức độ khác.  Điều 10, Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS)  hiện hành quy định: Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Toà án, trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, bị can bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh sự vô tội của mình. Những nội dung này được thể hiện xuyên suốt các quy định của BLTTHS Việt Nam trong đó có chế định xét xử.
Th.s Đinh Thế Hưng - Viện Nhà nước và pháp luật
Nguồn: Tạp chí Toà án nhân dân
copy từ: http://brandco.vn/service/luat-su-hinh-su/su-the-hien-cua-nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-che-dinh-ve-xet-xu-cua-luat-to-tung-hinh-su-viet-nam.html
  Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự là một trong những nguyên tắc trụ cột của tố tụng hình sự tạo nên nền tảng chủ đạo, cơ bản mang tính xuất phát điểm, bảo đảm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không bị coi là có tội khi lỗi của họ chưa được cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Việc thừa nhận nguyên tắc suy đoán vô tội được coi là thành tựu quan trọng của khoa học pháp lý hiện đại. Theo quan niệm đó, nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định trong Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc là: “Một người bị buộc tội có hành vi phạm tội được coi là vô tội cho đến khi sự phạm tội của người đó được xác định một cách hợp pháp trong một vụ xét xử công khai, trong đó có những sự bảo đảm cần thiết cho việc bào chữa của người đó” và trong khoản 2 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966: “Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật…”. 
nguồn:http://noichinh.vn/ho-so-tu-lieu/201404/nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-va-nhung-kien-nghi-sua-doi-bo-sung-bo-luat-to-tung-hinh-su-nam-2003-294277/
tham khảo thêm :http://vienkiemsathaiphong.gov.vn/index.php/home/detail/1035/Nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-Hien-phap-sua-doi-nam-2013-va-trach-nhiem-trien-khai-thi-hanh-cua-n

Thứ Tư, 23 tháng 4, 2014

LUẬT VỀ DÂN SỰ BẤT HỢP TÁC - Henry David Thoreau

“Civil Disobedience”, bài luận nổi tiếng nhất của Henry David Thoreau (1817-1862), nhà văn và nhà tư tưởng Mĩ, ra đời sau khi ông bị giam một đêm trong tù vì khước từ đóng thuế để phản đối Chiến tranh Mexico và nạn nô lệ đang phát triển tại Mĩ. 160 năm sau – nhất là sau những gì vừa diễn ra ở Tunisia và Ai Cập – càng thấy bài tiểu luận này vẫn đầy tính thời sự, không chỉ cho nước Mĩ.
***
Tôi hoàn toàn đồng ý với phương châm: “Chính phủ tốt nhất là chính phủ cai trị ít nhất”, và mong ước phương châm ấy được áp dụng vào thực tế một cách có hệ thống và càng nhanh càng tốt. Khi phương châm ấy được đưa vào thực tế thì nhất định cuối cùng nó sẽ đưa đến (tôi tin như thế): “Chính phủ tốt nhất là chính phủ không cai trị gì cả” và khi mà mọi người đã sẵn sàng chấp nhận chuyện đó thì họ sẽ có một chính phủ như thế. Chính phủ, trong trường hợp tốt nhất, chỉ là một phương tiện; nhưng thường thì đa số các chính phủ, và đôi khi tất cả các chính phủ, đều là những phương tiện tồi. Những lí luận phong phú, vững chắc và có sức thuyết phục dùng để phản đối việc duy trì một đội quân thường trực; cuối cùng có thể cũng được áp dụng để chống lại một chính phủ thường trực. Quân đội thường trực chỉ là cánh tay của chính phủ thường trực. Chính phủ, tự nó chỉ là một hình thức để nhân dân thực hiện ý chí của mình, có thể bị lạm dụng và biến chất trước khi nhân dân kịp dùng nó để thực hiện những điều họ muốn.
Nếu nói một cách cụ thể và như một công dân, chứ không phải như những người phủ nhận mọi chính phủ, tôi không đòi hỏi giải tán chính phủ ngay lập tức mà đòi hỏi một chính phủ được cải thiện ngay lập tức. Hãy để cho từng người nói rõ anh ta sẵn sàng tôn trọng một chính phủ như thế nào và đấy sẽ là bước đầu tiên tiến đến một chính phủ như thế.
Khi nhân dân nắm được chính quyền thì họ chuyển giao cho đa số (chính quyền của đa số – ND) và để cho nó tiếp tục cai trị một thời gian dài; đấy không phải là do nó cai trị một cách công bằng, cũng không phải là nó có vẻ công chính nhất đối với thiểu số mà đơn giản là bởi vì nó mạnh nhất. Nhưng chính phủ của đa số, trong mọi trường hợp, không thể dựa vào sự công bằng, dù là thứ công bằng trong giới hạn hiểu biết thông thường. Chả lẽ không thể có một chính phủ, trong đó lương tâm chứ không phải là đa số được quyền quyết định đúng sai? Trong đó đa số chỉ quyết định những vấn đề vụ lợi ư? Chả lẽ công dân lại phải giao lương tâm của mình, dù trong phút chốc hay chỉ một phần nhỏ lương tâm, cho các nhà lập pháp ư? Thế thì mỗi người còn cần lương tâm để làm gì? Tôi nghĩ rằng trước hết chúng ta phải là một con người, rồi sau mới là một công dân. Nên giáo dục tinh thần tôn trọng lẽ phải hơn là giáo dục tinh thần thượng tôn pháp luật. Bổn phận duy nhất tôi có quyền thừa nhận là luôn luôn làm những việc mà tôi cho là đúng. Người ta nói đúng rằng đoàn thể không có lương tâm; nhưng đoàn thể của những người có lương tâm thì có lương tâm. Luật lệ không bao giờ làm cho người ta trở thành công chính hơn, chính vì tôn trọng pháp luật mà ngay cả những người đứng đắn cũng thường xuyên, liên tục trở thành tác nhân của sự bất công…
Quần chúng phục vụ quốc gia không phải như những con người thực sự, mà bằng sức lực của mình, như những cỗ máy. Họ là quân đội thường trực, là cảnh sát, là cai tù, v.v. Trong đa số trường hợp họ không cần đến lương tri hay ý thức đạo đức; họ tự hạ mình ngang bằng với cỏ cây, đất đá; một lúc nào đó có thể chế được những người gỗ làm những nhiệm vụ y như thế. Những người đó không đáng tôn trọng hơn một con bù nhìn rơm hay một đống đất. Giá trị của họ cũng chỉ ngang với chó, ngựa mà thôi. Nhưng chính những người đó lại thường được coi là các công dân tốt. Những người khác, thí dụ đa số các nhà làm luật, các chính trị gia, các luật sư, tăng lữ, nhân viên văn phòng, phục vụ quốc gia chủ yếu bằng trí tuệ của họ, và vì thường không có khả năng phân biệt về mặt đạo đức mà vô tình họ có thể phục vụ cả quỉ sứ cũng như Chúa Trời. Chỉ rất ít người, đấy là các anh hùng, những người yêu nước, những thánh tử đạo, những nhà cải cách theo nghĩa cao quí và những người chân chính là phục vụ quốc gia với cả lương tâm của mình vì vậy mà thường phản đối chính phủ và bị chính phủ coi là kẻ thù…
Mọi cuộc bầu cử đều là trò chơi, giống như chơi cờ hay chơi xúc xắc vậy, có pha chút màu đạo đức, một trò chơi với đúng và sai, có những vấn đề đạo lí và có tiền cược. Tính cách của cử tri không có nghĩa lí gì. Tôi bầu theo cái cách mà tôi cho là đúng, có thể như thế, nhưng tôi không toàn tâm toàn ý lo lắng cho cái đúng ấy giành phần thắng. Tôi muốn giao nó cho đa số. Bổn phận đó như vậy là không bao giờ vượt quá quan điểm vụ lợi. Bầu cho cái đúng cũng có nghĩa là chưa làm gì cả. Đấy chỉ là thể hiện một cách mù mờ cho mọi người thấy ước muốn của bạn rằng cái thiện phải thắng mà thôi. Một người thông thái không bao giờ lại để mặc cho công lí phụ thuộc vào may rủi, cũng như không muốn nó chiến thắng nhờ vào sức mạnh của đa số. Hành động của đám đông thường chứa rất ít giá trị đạo đức. Cuối cùng nếu đa số ủng hộ việc bãi bỏ chế độ nô lệ thì hoặc là họ không quan tâm đến nó hoặc là chẳng còn mấy nô lệ nữa để mà huỷ bỏ. Lúc đó họ chính là những kẻ nô lệ. Chỉ có người khẳng định sự tự do cá nhân của mình bằng việc bỏ phiếu đó mới thúc đẩy được việc bãi bỏ chế độ nô lệ.
Tất nhiên là người ta không có trách nhiệm cống hiến cuộc đời mình cho việc loại trừ cái ác, dù đấy có là cái ác lớn nhất, người đó có quyền có những mối quan tâm khác; nhưng ít nhất anh ta cũng phải có trách nhiệm tránh xa điều ác và dù không nghĩ đến nó, anh ta cũng không được ủng hộ nó. Nếu tôi theo đuổi những mục đích và suy tưởng khác thì trước hết tôi phải nhìn xem liệu tôi có ngồi trên đầu trên cổ người khác khi theo đuổi những suy tưởng ấy không đã chứ. Tôi phải tụt xuống để người đó cũng có thể theo đuổi suy tưởng của anh ta chứ. Xin hãy xem những sự bất nhất. Tôi nghe thấy một số đồng bào tuyên bố: “Cứ để cho họ ra lệnh cho tôi đi đàn áp những cuộc bạo loạn của nô lệ hay đi Mexico xem, đừng hòng nhé!”; nhưng chính những người đó, bằng lòng trung thành của mình đã trực tiếp, hoặc ít nhất là gián tiếp, bằng tiền của mình, trang bị cho những người thay thế mình. Chính những người hoan hô người lính không chịu tham gia vào cuộc chiến tranh phi nghĩa lại vẫn ủng hộ cái chính phủ bất công đang tiến hành cuộc chiến tranh ấy… Thế là nhân danh Trật Tự và Phục Tùng dân sự tất cả chúng ta đã bị buộc phải kính trọng và khuyến khích sự hèn hạ của chính mình. Lần đầu phạm tội người ta cảm thấy đỏ mặt, nhưng lần sau người ta sẽ bàng quan; sự vô luân, như vẫn thường thế, trở thành trung tính về đạo đức và không hoàn toàn vô ích trong cuộc sống mà chúng ta đã tạo dựng lên…
Làm sao người ta có thể hài lòng và yên trí khi có một quan điểm nào đó? Người ta có thể yên trí được không nếu cho rằng mình đã bị xúc phạm? Nếu bạn bị người hàng xóm lừa một dollar thì bạn sẽ không cảm thấy hài lòng khi biết rằng mình đã bị lừa, hoặc nói rằng mình đã bị lừa hoặc ngay cả kiến nghị anh ta phải trả mà bạn sẽ thực hiện ngay lập tức các biện pháp buộc anh ta phải trả toàn bộ số tiền và lần sau không bị lừa nữa. Hành động xuất phát từ nguyên tắc – nhận thức và thực thi công lí – sẽ làm thay đổi các sự vật và các quan hệ, thực chất là một hành động cách mạng, hoàn toàn khác biệt với những hành động trước đó. Nó không chỉ phân chia nhà nước và nhà thờ, nó phân chia gia đình, hơn thế nữa, nó chia rẽ ngay từng cá nhân, tách phần quỉ ra khỏi phần Người của anh ta.
Vẫn còn những đạo luật bất công, liệu chúng ta có tuân thủ chúng hay chúng ta phải vừa nỗ lực sửa đổi chúng vừa tiếp tục tuân thủ hoặc bất tuân ngay lập tức? Nói chung người ta, dưới cái chính phủ như chính phủ hiện nay, nghĩ rằng phải chờ đợi cho đến khi thuyết phục được đa số thay đổi luật lệ. Họ cho rằng nếu họ chống lại thì kết quả càng tệ hại hơn. Nhưng nếu kết quả còn tệ hại hơn thì đấy là lỗi của chính phủ. Chính phủ làm cho nó thành tồi tệ như thế. Tại sao chính phủ không có khả năng dự đoán và chuẩn bị cho cải cách? Tại sao chính phủ lại không hoan nghênh thiểu số sáng suốt? Tại sao chính phủ lại gào lên và chống cự khi người ta chưa ra đòn? Tại sao chính phủ không động viên các công dân sẵn sàng chỉ ra sai phạm của mình và làm cho tốt, hơn là mắc phải chúng? Tại sao chính phủ lại luôn luôn đóng đinh câu rút chúa Jesus-Christ, tại sao nó lại rút phép thông công của Copernicus và Luther và tuyên bố rằng Washington và Franklin làm loạn?
Người ta có cảm tưởng rằng sự phủ nhận trên thực tế một cách cố ý quyền lực của chính phủ là hành vị phạm pháp duy nhất mà nó chưa từng dự liệu vì nếu không thì tại sao nó lại không đưa ra biện pháp trừng phạt tương ứng, phù hợp và xác định? Một người không có tài sản chỉ cần một lần không chịu kiếm cho chính phủ 9 shilling thì anh ta sẽ bị bỏ tù trong thời hạn do những người giam giữ anh ta tự ý quyết định chứ không phải theo bất cứ điều luật nào; trong khi nếu người ấy ăn cắp của nhà nước số tiền gấp 90 lần từng đó thì anh ta sẽ được thả ra ngay.
Nếu bất công là do sự va chạm nhất định phải có của bộ máy nhà nước thì cứ để cho nó va chạm, có thể bất công sẽ bớt đi nhưng bộ máy nhà nước cũng sẽ tiêu ma. Nếu bất công là một cái lò xo, cái ròng rọc, cái dây thừng hay một cánh tay đòn thì có thể cần phải nghĩ xem liệu việc chữa trị có tốt hơn không; nhưng nếu bản chất của nó đòi hỏi rằng bạn phải là tác nhân bất công đối với người khác thì tôi nói rằng bạn phải chống lại luật đó. Hãy lấy cuộc đời bạn làm cái phanh ngăn chặn cỗ máy đó. Điều ta cần phải làm là không được ủng hộ điều sai quấy mà ta lên án.
Về những biện pháp mà chính phủ đưa ra để sửa chữa những điều sai quấy thì tôi phải nói rằng tôi không biết các biện pháp đó. Chúng đòi hỏi nhiều thời gian mà đời người thì có hạn. Tôi còn những việc khác phải làm nữa. Tôi đến thế giới này không phải đơn giản là để tạo ra một chỗ tốt để sống mà còn phải sống trong đó, dù nó tốt hay xấu. Không ai phải làm tất cả mọi việc, nhưng ai cũng phải làm một số việc, và bởi vì người ta không thể làm mọi việc nên không được làm những việc sai quấy. Việc của tôi không phải là thỉnh cầu ông Thống đốc bang hay nhà làm luật cũng như họ không có trách nhiệm gửi thỉnh cầu cho tôi; nhưng nếu lời thỉnh cầu của tôi không được họ nghe thì sao? Trong trường hợp này nhà nước không có biện pháp nào cả; chính Hiến pháp đã là sai quấy rồi. Điều đó nghe có vẻ chói tai, ngang ngạnh và thiếu thiện chí, nhưng phải đối xử với thái độ đó một cách tử tế nhất và thận trọng nhất như thế vì nó xứng đáng như thế. Cải thiện cũng giống như sinh thành và hoại diệt, cơ thể phải quặn lên…
Tôi chỉ trực diện chính phủ Mĩ hay đại diện của nó là chính phủ bang nhiều nhất là một lần một năm, đấy là người nhân viên thuế vụ; một người như tôi thì đấy là cách duy nhất có thể trực diện với nó. Bao giờ nó cũng nói: “Hãy công nhận uy quyền của ta”. Trong tình hình hiện nay thì ta chỉ có thể nói với nó rằng ta đang bất mãn với nó, ta không yêu nó một cách đơn giản nhất, hiệu quả nhất và cần thiết nhất: không công nhận nó… Tôi biết rõ rằng nếu một ngàn người trung thực, nếu một trăm người trung thực, nếu có mười người tôi có thể kể tên, chỉ cần mười người trung thực thôi, thậm chỉ chỉ cần một người TRUNG THỰC trong cả Bang Massachusetts này không giữ nô lệ nữa, người đó sẽ ra khỏi cộng đồng, bị nhốt vào tù; nhưng chế độ nô lệ trên toàn nước Mĩ sẽ bị bãi bỏ. Vấn đề là khởi đầu dù nhỏ đến đâu: một khi điều tốt đã được làm thì nó sẽ trở thành vĩnh viễn. Nhưng chúng ta chỉ thích nói về chuyện đó thôi: ta coi đấy là nhiệm vụ của mình. Rất nhiều chỉ bảo giúp rập cải cách, nhưng chẳng có một người cụ thể nào (làm chuyện đó cả)…
Khi chính phủ bỏ tù người ta một cách bất công thì nhà tù chính là chỗ cho người công chính… Nếu có người nào đó nghĩ rằng đi tù thì anh ta sẽ không còn tạo được ảnh hưởng nữa, rằng chính phủ sẽ không nghe thấy anh ta, rằng trong tù anh ta không còn là kẻ thù nữa thì anh ta không hiểu rằng chân lí mạnh hơn dối lừa đến mức nào, cũng như không hiểu rằng người thực sự trải nghiệm bất công sẽ đấu tranh hiệu quả và hùng hồn như thế nào. Bạn không chỉ đưa ra ý kiến bằng một mẩu giấy mà phải bằng toàn bộ ảnh hưởng của mình. Thiểu số là bất lực khi chiều theo đa số, trong trường hợp đó nó cũng không còn là thiểu số nữa, nhưng sẽ là vô địch khi nó chiến đấu với tất cả sức mạnh của mình. Nếu sự lựa chọn là bỏ tù những người công chính hay chấm dứt chiến tranh và chế độ nô lệ thì Nhà nước sẽ không lưỡng lự. Nếu một ngàn người không chịu đóng thuế thì sẽ không có đàn áp và đổ máu như khi họ đóng thuế để giúp chính phủ đàn áp và giết hại những người vô tội. Đấy chính là một cuộc cách mạng hoà bình, nếu quả thật có thể có một cuộc cách mạng như thế. Nhưng nếu một nhân viên thuế vụ hay một nhân viên công lực nào khác hỏi, như có người đã từng hỏi tôi: “Tôi biết làm thế nào?” thì câu trả lời của tôi sẽ là: “Nếu ông quả thật muốn làm một cái gì đó thì hãy từ nhiệm đi”. Khi công dân bất tuân và công chức từ nhiệm thì đấy chính là cách mạng. Nhưng giả sử có đổ máu? Thế máu không đổ khi lương tâm bị thương tổn ư? Nhân cách và sự bất tử của con người đang rỉ ra từ vết thương này, máu sẽ chảy cho đến chết. Dòng máu ấy lúc này vẫn đang chảy đây…
Tôi không đóng thuế thân sáu năm rồi. Một lần tôi bị giam một đêm vì chuyện đó; trong khi ngắm nhìn bức tường đá dày gần một mét [1] , cái cổng gỗ viền thép dày cả nửa mét [2] tôi bất ngờ nhận ra sự ngu dốt của cái thể chế coi tôi chỉ như một cục thịt, có thể giam cầm được. Tôi ngạc nhiên vì họ đã chọn cách đó chứ không sử dụng tôi bằng cách nào khác. Có một bức tường đá ngăn cách tôi với đồng bào của tôi, nhưng người ta còn phải vượt qua một bức tường khó khăn hơn thế nhiều để đạt được tự do như tôi. Tôi không cảm thấy bị giam cầm dù chỉ một khắc giây và bức tường kia chỉ là sự phí phạm đá và vữa mà thôi. Tôi thấy như chỉ một mình tôi đóng thuế mà thôi. Không biết xử sự với tôi, họ đã hành động như những kẻ vô giáo dục. Những lời đe doạ cũng như thuyết phục của họ đều ngớ ngẩn vì họ cho rằng ước muốn duy nhất của tôi là ra khỏi mấy bức tường đó. Tôi không thể không mỉm cười nhìn theo cách họ ngăn chặn tư tưởng của tôi, nhưng tư tưởng của tôi vẫn theo họ mà ra, không hề ngăn ngại, và chỉ có chúng mới là mối nguy với họ mà thôi. Không thể khuất phục được tôi, họ quay ra hành hạ thân xác tôi; giống như trẻ con, khi không đánh được người chúng ghét thì chúng quay ra hành hạ con chó của người đó. Tôi thấy rằng nhà nước rất kém khôn ngoan, nó cũng lúng túng giống như một gái già cô độc với chiếc thìa bạc vậy; nó không phân biệt được bạn thù, nó đã đánh mất sự tôn trọng cuối cùng còn lại của tôi và tôi chỉ cảm thấy thương hại cho nó mà thôi.
Như vậy là nhà nước không bao giờ có ý kiểm soát lí trí, đạo đức mà chỉ kiểm soát thân xác và ngũ quan của con người [3] . Nó không được trang bị lòng trung thực và trí thông minh, nó chỉ có sức mạnh mà thôi. Tôi sinh ra không phải để bị đè nén. Tôi sẽ thở theo cách của mình. Để xem ai mạnh hơn ai. Đám đông thì có cái gì? Chỉ những ai thuận theo luật cao hơn tôi mới ép buộc được tôi. Đằng này họ lại bắt tôi giống như họ. Tôi chưa từng nghe nói có người nào chịu để cho đám đông chỉ cho phải sống thế này hay sống thế kia. Thế mà gọi là sống ư? Khi chính phủ bảo tôi: “Muốn sống thì đưa ví đây”, thì việc gì tôi phải vội vã giao tiền cho nó? Có thể nó đang rất túng bấn và không biết phải làm thế nào, nhưng chuyện đó thì liên quan gì đến tôi. Nó phải tự xoay xở, cũng như tôi vậy thôi…
Tôi không bao giờ trốn thuế cầu đường vì tôi muốn là một người hàng xóm tốt cũng như một công dân tồi; còn về việc bảo trợ trường học thì tôi đang đóng góp phần của mình vào việc giáo dục đồng bào của mình đây. Không phải là tôi từ chối nộp khoản này hay khoản kia trong bảng thống kê thuế khoá. Đơn giản là tôi bất tuân chính phủ và không muốn liên quan gì đến nó hết. Tôi không quan tâm đến đường đi của những đồng tiền của tôi, ngay cả nếu tôi có thể làm thế, cho đến khi họ dùng nó để mua người hay súng để giết người – đồng tiền không có lỗi gì – nhưng tôi muốn theo dõi hậu quả của sự bất tuân của tôi. Trên thực tế tôi tuyên bố một cuộc chiến tranh thầm lặng với chính phủ, theo cách của tôi, mặc dù, như vẫn thường thấy trong các trường hợp như thế, tôi tiếp tục nhận những lợi ích của nó.
Quan điểm hiện nay của tôi là như thế. Nhưng phải rất thận trọng sao cho hành động của mình không bị ảnh hưởng bởi thái độ cố chấp hay ý kiến của đám đông. Hãy chịu trách nhiệm trước lương tâm của mình và trước lịch sử.
Đôi khi tôi nghĩ rằng họ đều là những người tốt, chỉ vì họ u mê mà thôi, họ sẽ hành xử đúng hơn nếu họ biết phải làm như thế nào; tại sao ta lại làm cho những người hàng xóm phải đau khổ khi đối xử với ta như thế dù họ không cố ý? Nhưng sau đó tôi lại nghĩ đấy không phải là lí do để tôi hành xử như họ hay khiến những người khác phải chịu những đau khổ còn lớn hơn thế nhiều. Đôi khi tôi lại tự hỏi rằng nếu đám đông hàng triệu người không giận dữ, không có ác ý, đòi có mấy shilling, mà họ thì không thể rút lui cũng không thể thay đổi yêu cầu được, còn mình thì cũng không thể kêu gọi hàng triệu người khác giúp đỡ được, vậy thì đưa thân ra hứng chịu cái sức mạnh bạo tàn ấy mà làm gì? Ta đâu có kháng cự cái đói, cái rét, ta đâu có kháng cự sóng gió một cách ngoan cố như vậy, ta yên lặng qui thuận hàng ngàn chuyện bất khả kháng khác cơ mà. Ta đâu có đưa đầu vào lửa. Nhưng đồng thời tôi cũng thấy rằng đấy không hoàn toàn là sức mạnh bạo tàn mà còn có tính nhân bản nữa, và tôi có mối liên hệ với họ như với những con người chứ không phải với những vật vô tri vô giác nên tôi cho rằng có thể, thứ nhất, thuyết phục được Đấng sáng tạo ra họ và thứ hai, thuyết phục được chính họ. Còn khi tôi cố ý cho đầu vào lửa thì tôi không thuyết phục được lửa, cũng không thuyết phục được Đáng sáng tạo ra lửa, tôi chỉ nên tự trách mình mà thôi. Nếu tôi có thể tự thuyết phục được mình rằng tôi có toàn quyền chấp nhận người ta như họ đang là và đối xử phù hợp với họ, chứ không phải đối xử theo quan điểm cũng như mong ước của tôi về cái tôi cũng như họ phải là, khi đó, giống như một người Hồi giáo hay một người theo thuyết định mệnh, tôi sẽ phải ráng mà chấp nhận các sự kiện như chúng đang là và tự nhủ rằng đấy là ý Chúa. Nhưng giữa sự kháng cự lại sức mạnh của con người và chống lại sức mạnh của thiên nhiên có một sự khác nhau là trong cuộc đấu tranh với con người tôi có thể thành công, trong khi giống như Orpheus, tôi không thể thay đổi được bản chất của đất đá, cỏ cây hay dã thú.
Tôi không muốn tranh chấp với bất cứ người nào hay dân tộc nào. Tôi không muốn chẻ sợi tóc làm tư hay bới lông tìm vết hoặc làm ra vẻ ta đây với người khác. Có thể nói, tôi thường tìm cớ để tuân thủ pháp luật. Tôi luôn sẵn sàng tuân thủ pháp luật. Tôi tự nhận thấy như thế và hàng năm, mỗi lần nhân viên thuế vụ tới thì tôi lại kiểm điểm hành động và quan điểm của chính phủ trung ương và chính phủ Bang cũng như thái độ của quần chúng để tìm cớ tuân thủ.
Ta phải yêu nước như yêu cha mẹ mình
Nếu có lúc ta giận hờn người,
Nếu tình yêu và sức lực ta không vinh danh người
Thì đấy là vì niềm tin và lương tâm ta
Chứ không phải là do tham lam mà ra.
Tôi tin rằng chẳng mấy nữa chính phủ sẽ giải thoát cho tôi khỏi những công việc kiểu này và khi đó tôi cũng sẽ là một người yêu nước bình thường như mọi công dân khác. Nếu xem xét từ yêu cầu thấp thì Hiến pháp, với tất cả hạn chế của nó, là tuyệt vời; luật pháp và toà án rất đáng tôn trọng; Bang này cũng như chính phủ Mĩ nói chung rất đáng ngưỡng mộ như nhiều người đã mô tả; nhưng nếu xét từ yêu cầu cao hơn thì chúng đúng như tôi mô tả; còn xét từ yêu cầu cao nữa hay cao nhất thì liệu ta có thể nói gì, hoặc chúng có đáng để xem xét hay suy nghĩ hay không?
Tôi chẳng liên quan nhiều đến chính phủ và tôi sẽ nghĩ đến nó thật ít thôi. Ngay trong thế giới này tôi cũng ít khi là thần dân của chính phủ. Nếu một người biết tự do tư tưởng, tự do tưởng tượng thì đối với anh cái không có không bao giờ lại là có trong một thời gian dài và các nhà cầm quyền hoặc cải cách ngu xuẩn không hoàn toàn cản trở được tư tưởng của anh ta.
Tôi biết rằng đa số mọi người có suy nghĩ khác tôi, nhưng tôi cũng chẳng đồng ý với những người nghiên cứu các vấn đề này hoặc những vấn đề tương tự. Các chính khách và các nhà làm luật đắm mình trong thể chế và không thể nào nhìn rõ được nó. Họ thảo luận việc cải cách xã hội, nhưng chính họ lại không có điểm tựa bên ngoài nó. Họ có thể là những người có kinh nghiệm và sáng suốt và đã tạo ra những hệ thống tinh vi và hữu ích, chúng ta phải cám ơn họ về điều đó; nhưng tài trí và sự hữu dụng của họ cũng chỉ nằm trong những giới hạn nhất định chứ không phải là rộng lớn…
Quyền lực của chính phủ, ngay cả chính phủ mà tôi sẵng sàng tuân thủ – vì tôi sẽ vui mừng tuân thủ những người giỏi hơn và làm tốt hơn tôi; và trong nhiều trường hợp tôi sẽ tuân thủ những người không giỏi hơn cũng không cần tốt hơn – còn chưa trong sạch: để có thể hoàn toàn công chính, chính phủ phải được những người bị trị thừa nhận và tán thành. Chính phủ chỉ có quyền với tôi khi đã được tôi thừa nhận. Quá trình phát triển từ chế độ quân chủ chuyên chế sang quân chủ lập hiến rồi từ lập hiến sang dân chủ là quá trình tiến đến sự tôn trọng cá nhân. Ngay một triết gia Trung Quốc cũng biết rằng dân là gốc của nước. Chả lẽ nền dân chủ như chúng ta đang thấy hiện nay là bước cải thiện cuối cùng rồi ư? Chả lẽ không thể tiến thêm một bước nào trong việc công nhận và tổ chức các quyền của con người ư? Nhà nước chưa thể trở thành tự do và khai sáng thật sự chừng nào nó chưa công nhận các công dân là những chủ thể độc lập với nhà nước và cao hơn nhà nước; quyền lực và sức mạnh của nhà nước là từ nhân dân mà ra và phải đối xử với các công dân một cách tương xứng. Tôi thích vẽ ra trong trí não một nhà nước đủ sức thực hiện lẽ công bằng đối với mọi công dân, một nhà nước đối xử với thần dân của mình như với người láng giềng, một nhà nước không lấy làm lo lắng khi có một số sống tách ra, không dây dưa với nhà nước, miễn là họ thực hiện nghĩa vụ đối với những người láng giềng và đồng bào mình. Tạo ra được những loại quả như thế và để cho nó tự rụng khi chín tới là nhà nước đang chuẩn bị cho một nhà nước tuyệt vời hơn và vinh quang hơn, tôi cũng đã tưởng tượng ra nhà nước ấy nhưng chưa nhìn thấy ở đâu cả.
Phạm Nguyên Trường dịch
Henry David Thoreau, Online-Literature
Nguồn: Tạp chí Thanh Niên Phía Trước
____________
[1]Nguyên văn: two or three feet thick – dày hai ba foot (mỗi foot dài 0,3048m)
[2]Nguyên văn: a foot thick – dày một foot (mỗi foot dài 0,3048m)
[3]E rằng lúc đó nhà nước chưa được tinh tế lắm. Các nhà nước toàn trị sau này đã kiểm soát tất, cả lí trí, cả tình cảm nữa. (ND) 
nguồn : https://www.facebook.com/photo.php?fbid=872639572752935&set=a.692934687390092.1073741832.678999965450231&type=1