Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

Tại sao tờ báo bị đóng cửa

Ở nước ta... (Không, mở đầu như thế không được) ở đất nước chúng ta... (Vẫn không ổn; những truyện ngắn có câu mở đầu như vậy thường có kết thúc dở; và tác giả của chúng cũng không được hoan nghênh).
Trong nước của ta... (Không,tốt nhất không nên viết về ta, chả lẽ không có các đề tài khác sao? Hãy chỉ nên viết về những gì có thể viết).
Ở Thổ Nhĩ Kỳ... (Này, anh bạn, đừng viết thẳng thừng như thế, phải viết mềm đi một chút).
Tôi kể về một trường hợp trong đời làm báo của tôi nhưng không biết mở đầu như thế nào.
Một lần... (Như vậy có lẽ được. Anh còn phải học viết nhiều nếu cuộc đời của anh còn khá dài) một tờ báo nơi tôi làm việc bị đóng cửa. (Cách nói đạt đấy: "bị đóng cửa", nghĩa là không biết bị ai đóng cửa, vì thế hồ sơ sẽ bị xếp vào loại những tội ác không điều tra được và thời gian sẽ bị quên lãng).
Tôi tiếp tục.
Tờ báo bị đóng cửa vì một sai sót. Cái sai sót này có giá trị tư liệu không thể tranh cãi và hoàn toàn xứng đáng ghi vào lịch sử báo chí.
Các bạn chắc đã nghe nói đến hai sai sót nghiêm trọng đã được ghi vào lịch sử báo chí thời cộng hòa.
Đây là một trong số đó.
Trên trang nhất tờ báo có đăng hai bức ảnh, mỗi bức choán hẳn hai cột báo. Bức thứ nhất chụp những con bò được giải thưởng tại hội chợ triển lãm với những chiếc sừng được thắt nơ đỏ; bức thứ hai chụp đoàn đại biểu quan chức nhà nước trước lúc lên đường tham quan châu Âu... Lời chú thích dưới 2 tấm ảnh bị đặt lộn.
Lời chú thích dưới tấm ảnh chụp các thành viên đoàn đại biểu ghi: "Người ta đã trao giải cho chủ nhân của những con bò được giải tại hội chợ. Trong ảnh là giống bò trong nước được nuôi dưỡng tốt"
Chú thích dưới ảnh kia ghi là: "ở đây các bạn nhìn thấy đoàn đại biểu trước lúc lên đường thăm châu Âu".
Những sai sót kiểu như vậy trong báo chí của ta nhiều vô kể; nhưng chưa bao giờ xảy ra chuyện nhầm đàn bò với đoàn đại biểu chính phủ. Song cái sai sót mà tôi sắp kể cho các bạn nghe sau đây hoàn toàn không có liên quan gì đến những con bò...
trích : "Tại sao tờ báo bị đóng cửa "-Aziz Nezin - nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ sinh 1915

Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014

Đạo đức kinh (Lão Tử)

*1. Cái đạo có thể dùng lời để nói được chẳng phải là cái Đạo vĩnh viễn; cái tên có thể gọi tên được chẳng phải là cái tên vĩnh viễn. Cái“Vô” là cái tên chỉ cái khởi thủy của trời đất; cái “Hữu “ là cái tên để chỉ bà Mẹ của muôn vật. Cho nên (phải xem) Đạo là cái Vô vĩnh viễn nếu như ta muốnnhìn cái huyền diệu của Đạo, (lại phải xem) nó là cái Hữu vĩnh viễn nếu như ta muốn nhìn cái biểu hiện của nó. Cả hai cái (mặt Vô và mặt Hữu) này cùng xuất hiện với nhau, mà tên gọi khác nhau. Hiện tượng cùng xuất hiện này là cái huyềndiệu. Đó là cái huyền diệu của sự huyền diệu, cái cửa để bước vào mọi cái huyền diệu.

*2. Khi thiên hạ đều biết cái tốt là tốt thì đó là cái xấurồi. Khi thiên hạ đều biết cái thiện là thiện thì nó đã là cái bất thiện rồi.Cho nên cái Hữu và cái Vô sinh ra nhau; cái Khó và cái Dễ nghiêng vào nhau; cáiDài và cái Ngắn giao tiếp nhau; Âm và Thanh chuyển hóa cho nhau; cái đi trướcvà cái đi sau đi theo nhau. Chính vì vậy thánh nhân thi hành việc Vô vi, thựchiện việc dạy không dùng lời.Muôn vật xuất hiện mà mình không nói; chúng sinhra mà mình không chiếm lấy; mình làm mà không cậy công; công lao hoàn thành màmình không kể công. Chính vì mình không kể công cho nên (công) mới không mấtđi.
*3. Không chuộng cái giỏi khiến dân không tranh dành.Không quí những của cải khó kiếm khiến dân không làm trộm cắp. Không để lộ lòngham muốn khiến dân không làm loạn. Chính vì vậy cho nên cách cai trị của bậcthánh là: làm cho lòng dân trống rỗng, bụng dân no, chí dân mềm yếu, xương dâncứng mạnh. Luôn luôn khiến dân không biết, không ham muốn, khiến kẻ khôn khôngtrổ được điều gì. Làm cái Vô vi, thì không có việc gì không an.
*4.A. Cái đạo tuy trống rỗngnhưng công dụng của nó không bao giờ hết. Nó sâu xa thay, tựa hồ cái gốc củamuôn vật.
B. Nó làm cùn cái bén nhọn củamình, tháo gỡ cái rối rắm của mình, làm cho cái sáng của mình hòa lẫn với cáibụi bặm của mình.
C. Nó ẩn náu thay, nhưng xem ravẫn (tự mình) tồn tại. Ta không biết nó là con của ai, dường như có trướcthượng đế.
*5.A. Trời đất chẳng hề (lo đến)nhân, xem muôn vật là con chó rơm; thánh nhân chẳng hề (lo đến) nhân, xem trămhọ là con chó rơm.
B. Cái khoảng ở giữa trời và đấtphải chăng giống như cái ống bể? Tuy trống rỗng nhưng lại dùng không hết. Càngvận động, (muôn vật) lại càng hiện ra.
C. Nói lắm hay cùng lý, chẳngbằng giữ  cái vừa mức.
*6. Cái huyền diệu của cái hang(/cốc thần/) không chết, cho nên gọi là bà mẹ huyền diệu (/huyền tẫn/). Cái cửacủa bà  mẹ huyền diệu, đó là cái gốc củatrời đất. Tồn tại xem ra dằng dặc, dùngmà không hết.
*7.A. Trời dài đất lâu. Trời đấtsở dĩ có thể dài và lâu vì nó không sống cho mình. Cho nên nó có thể sống mãi.
B. Vì vậy bậc thánh nhân đặt thânmình ra sau, cho nên cái thân ông ta lại ở trước; đặt thân mình ra ngoài nênthân ông ta mới còn. Đó chẳng phải vì ông ta có cái gì riêng đó sao? Vì vây chonên ông ta làm cho cái riêng của mình hoàn thành.
*8.A. Kẻ thiện cao nhất giống nhưnước. Nước làm cho muôn vật được lợi mà không tranh giành. Nó ở vào nơi mọingười gét nên nó gần với Đạo.
B. Ở khéo chọn chỗ, lòng khéochọn nơi sâu, chơi khéo chọn người, nói khéo chọn chữ tín, làm chính sự khéochọn sự yên lành, làm việc khéo chọn năng lực, hành động khéo chọn lúc (nênlàm). Ôi! chỉ vì chẳng tranh giành nên không lầm lỗi.
*9. Nắm lấy cho nó đầy, chẳngbằng thôi đi. Sờ mài nó nhọn thì chẳng giữ mãi. Ngọc vàng đầy nhà chẳng thể giữđược. Giàu sang mà kiêu căng thì tự chuốc lấy họa. Công đã thành thì thân rútlui, đó là đạo trời.
*10.A. Làm cho hồn phách giữ được“cái Một” (/đây là cái Đạo/) phỉa chăng có thể khỏi chia lìa? Làm cho cái khíđạt đến sự mềm yếu phải chăng có thể thành đứa trẻ sơ sinh? Gạt bỏ việc ngắmnhìn điều huyền bí phải chăng có thể không nhơ bẩn?
B. Phải chăng có thể lấy “Vô vi”để yên dân, trị nước? Phải chăng có thể lấy yên tĩnh để cho cửa trời (các giácquan) đóng mở? Phải chăng có thể dùng “Vô vi” để biết rõ mọi việc?
C. Cái sinh ra vật và nuôi nấngnó, sinh ra mà không chiếm lấy, làm mà không cậy công, làm cho vật lớn lên màkhông làm chủ, đó là cái Đức huyền diệu.
*11. Trong ba mươi cái nan hoacùng một bầu xe, ở ngay cái vô của bánh xe có cái công dụng của xe. Nhồi đấtlàm đồ dùng, ở ngay cái vô của đồ dùng có cái công dụng của đồ dùng. Khoét cáicửa lớn, cửa sổ để làm phòng(/người Trung Quốc xưa vẫn quen khoét núi đất đểở/), ở ngay cái vô của phòng có cái công dụng của phòng. Cho nên ta xem nó làcái Hữu để mưu cái lợi; xem nó là cái vô để mưu cái công dụng.
*12. Năm màu khiến mắt người tatối đi. Năm âm khiến tai người ta điếc đi. Năm mùi khiến miệng người ta tê đi.Ham theo đuổi săn bắn khiến người ta phát cuồng. Hàng hóa khó kiếm khiến ngườita làm chuyện sai trái. Vì vậy, bậc thánh nhân lo bụng không lo mắt. Cho nên bỏcái thứ hai mà theo cái thứ nhất.
*13. Hãy sợ việc ân sủng như điềunhục nhã. Sở dĩ ta có mối lo lớn vì ta có thân. Tại sao bảo: “Hãy sợ hãi điềuân sủng như điều nhục nhã?”. Đó là vì có vinh ở trên thì có nhục ở dưới. Chonên được nó cũng sợ hãi; mà mất nó cũng sợ hãi. Cho nên nói “Hãy sợ hãi điều ânsủng cũng như điều nhục nhã”. Tại sao nói “Ta có mối lo lớn vì ta có thân?”. Đólà vì, ta có thân nên có mối lo lớn, nếu như ta không có thân thì ta có gì phảilo?. Cho nên kẻ nào biết quí thân mình mà lo cho thiên hạ thì có thể gửi thiênhạ cho người ấy. Kẻ nào vì yêu mình mà lo cho thiên hạ thì có thể giao thiên hạcho người ấy.
*14.Vật mà nhìn không thấy gọi là“Di”; lắng tai mà không nghe gọi là “Hi”; chộp mà không nắm được gọi là “Vi”.Ba cái này không thể truy cứu được cho nên hỗn hợp lại làm một. Cái trên của nókhông sáng; cái dưới của nó không tối. Dằng dặc mà không thể gọi tên, lại quayvề chỗ không có vật gì hết. Cho nên gọi nó là cái hình trạng không có hìnhtrạng, cái hình tượng không có sự vật. Cho nên gọi nó là cái thấp thoáng. Đónnó thì không thấy đầu; đuổi theo nó thì không thấy phía sau nó. Hãy lấy cái đạoxưa để chế ngự cái tồn tại hiện nay. Có thể biết đầu mối xưa, đó là nắm đượccái giềng mối của Đạo.
*15. Con người xưa khéo thực hiệncái đạo thì tinh diệu, huyền ảo, thông suốt, sâu xa không thể nhận thức được(anh ta), cho nên tạm miêu tả anh ta như sau: anh ta rụt rè chừ, như lội quasông vào mùa đông; lúng túng chừ, như sợ bốn bên hàng xóm; nghiêm chỉnh chừ,như mình là người khách; rã rời chừ, như băng giá đang tan. Đôn hâu chừ, nhưkhúc gỗ mộc; trống rỗng chừ, như cái hang; hỗn độn chừ, như nước đục. Ai có thểlàm cho cái đục lắng xuống dần dần thành trong?. Ai có thể làm cái yên tĩnh kéodài, dần trở nên động? Giữ được cái đạo đó mà không muốn tự mãn? Vì không tựmãn cho nên có thể ẩn mình không cho người ta biết.
*16.A. Hãy đạt đến cái trốngkhông cùng cực; hãy giữ lấy cái hết sức yên tĩnh. Muôn vật đều sinh ra, ta quađó thấy chúng đều trở về gốc. Vật tuy nhan nhản, tất cả đều trở về cái gốc củamình. Trở về gốc gọi là “hư tĩnh”, cái đó gọi là “trở về bản tính”(/phụcmạng/). Trở về bản tính gọi là “cái lẽ tự nhiên”(/thường/). Biết được cái lẽ tựnhiên gọi là “sáng suốt”; không biết lẽ tự nhiên, làm bậy, là tai hại.
B. Biết cái lẽ tự nhiên thì chứađựng được. Chứa đựng được thì chung cho mọi người(/công/). Do chung cho mọingười nên bao khắp. Bao khắp là hợp với trời. Hợp với trời là đúng đạo. Theođạo thì lâu dài, suôt đời không bị nguy hiểm.
*17.A. (Với ông vua) cao nhất,dân chỉ biết mình có ông vua như thế. (Với ông vua) kém hơn, dân yêu quí vàkhen ngợi ông ta. (Với ông vua) kém hơn nữa, dân sợ ông ta. Xuống thêm nữa, dânkhinh ông ta. (Với loại vua này) không đủ để tin nên dân cũng không tin.
B. Ông vua cao nhất nhàn hạ thay,không nói. Công lớn đã thành, công việc xong xuôi, mà trăm họ đều bảo: “Tựnhiên tôi thấy như thế”.
*18. Khi cái Đạo lớn bị bỏ mới cócái Nhân Nghĩa. Khi sự khôn ngoan, tính toán sinh ra là có cái dối trá lớn. Sáungười thân chẳng hòa hợp mới có hiếu và từ. Nhà nước có tối tăm loạn lạc mới cókẻ trung thần.
*19. Cắt đứt cái sáng suốt, vứtbỏ cái khôn thì dân lợi gấp trăm lần. Cắt đứt Nhân, rời bỏ Nghĩa, dân sẽ quantrở lại hiếu và từ. Cắt đứt cái khéo, vứt bỏ cái lợi sẽ không có trôm cướp. Bacái trên chỉ là cái văn vẻ, không đủ (cai trị). Cho nên phải khiến cho dân cócái để theo: nêu cao cái giản dị, giữ lấy sự chất phác, giảm lòng riêng tư, bớtsự ham muốn.
*20.A. Cắt đứt cái học sẽ khôngphải lo lắng. Lời vâng dạ và lời mắng nhiếc cách xa nhau đến bao nhiêu đâu! Cáithiện và cái ác cách xa nhau có bao nhiêu đâu! Khi tai họa chưa đến thì mơ hồthay! Cái điều người ta sợ, ta không thể không sợ.
B. Ta khác thế tục quá xa. Mọingười hớn hở, như hưởng bữa tiệc lớn, như bước lên đài vào mùa xuân. Riêng talặng lẽ không tỏ dấu vết gì, như đứa trẻ sơ sinh chưa biết cười. Rũ rượi khôngbiết đi về đâu. Mọi người đều có thừa; riêng ta thiếu thốn, ta ôm tấm lòng củakẻ ngu si chăng? Mờ mịt thay! Thế tục rạng rỡ, riêng ta mịt mờ; thế tục trongsáng, riêng ta mờ mờ. Thản nhiên chừ, như biển; phiêu bạt chừ, không có nơidừng! Mọi người đều có cái để đòi hỏi, riêng ta một mình bướng bỉnh như bỉ lậu.Riêng mình ta khác mọi người mà giữ bà mẹ nuôi muôn vật (/thực mẫu/).
*21.A. Biểu hiện của cái Đức lớn(/khổng đức/) là nó tuân theo Đạo.
B. Đạo chỉ là vật thấp thoáng,mập mờ. Trong đó có hình tượng. Mập mờ, thấp thoáng trong đó có sự vật; sâu xatăm tối, trong đó có “cái mầm” (/tinh/ đây chỉ tinh trùng). Cái mầm ấy chắcchắn, trong đó có cái đáng tin. Từ xưa đến nay, cái tên của nó chẳng mất để làmcái gốc của muôn vật (/dĩ tuyệt chúng phủ/). Ta làm sao biêt được nó là cái gốccủa muôn vật? Vì điều đã nói trên đây.
*22.A. (Đạo khiến) cái quanh cosẽ được bảo toàn; cái cong sẽ được duỗi thẳng; cái gì trũng xuống thì sẽ trànđầy; cái gì cũ nát sẽ mới lại; cái gì ít ỏi sẽ được thêm; cái gì nhiều sẽ gâymê hoặc.
B. Chính vì vậy bậc thánh nhângiữ cái một (/cái Đạo/) mà làm mẫu mực cho thiên hạ. Không tự mình nhìn cho nênsáng; không cho là đúng cho nên rực rỡ; không tự khoe mình cho nên có công lao;không tự mãn cho nên đứng đầu. Chính vì không tranh giành với ai cho nên thiênhạ không ai tranh giành được với ông ta.. Cho nên nói “Quanh co cho nên đượcbảo toàn” đâu phải lời nói trống không? Hãy chân thành bảo toàn rồi quay về vớinó (/Đạo/).
*23.A. Nói ít, theo tự nhiên. Chonên gió bão chẳng kéo dài suốt buổi sáng; mưa rào chẳng kéo suốt cả ngày. Ailàm nên điều ấy? Trời đất đấy. Đến cả trời với đất còn chưa có thể kéo dài,huống chi là con người.
B. Kẻ nào chăm lo cho Đạo thì sẽcùng được với Đạo; kẻ nào chăm lo theo Đức thì cùng được với Đức. Cùng theoĐạo, Đạo cũng vui nhận anh ta; cùng theo với Đức, Đức cũng vui nhận anh ta;cùng theo với cái mất, cái mất cũng vui nhận anh ta. Khi đức tin (của mình)không đủ thì mới có chuyện (người ta) không tin.
*24. Nhón chân thì không đứngvững được; chạng chân thì không đi được. Kẻ tự biểu lộ mình thì không sáng suốt,kẻ tự cho mình là đúng thì không chói lọi. Kẻ tự khoe công thì không có công;kẻ tự mãn thì không được lâu dài. Căn cứ vào Đạo mà xét thì những điều trên đềulà cơm thừa canh cặn. Súc vật còn chán ghét nó, cho nên người có Đạo khôngchuộng.
*25.A. Có cái vật hình thành hỗnđộn, sinh trước trời đất. Yên lặng trống không đứng một mình không thay đổi, đivòng mà không mỏi, có thể làm bà  mẹthiên hạ.

*25.A. Có cái vật hình thành hỗnđộn, sinh trước trời đất. Yên lặng trống không đứng yên một mình không thayđổi, đi vòng mà không mỏi có thể làm bà mẹ thiên hạ. Ta không biết cái tên nólà gì, gượng đặt tên nó là cái lớn. Cái lớn ấy đi; cái đi của nó xa; cái xa củanó quay về.
B. Cho nên cái đạo lớn; Trời lớn;Đất lớn; Người cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn mà Con Người là một trongbốn cái này. Con Người lấy Đất làm khuôn phép; Đất lấy Trời làm khuôn phép;Trời lấy Đạo làm khuôn phép; Đạo lấy Tự nhiên làm khuôn phép.
*26. Cái nặng là gốc rễ cho cáinhẹ; cái yên tĩnh là gốc rễ cho cái nôn nóng. Vì vậy cho nên suốt ngày bậcthánh nhân đi đường không rời xe chở; tuy hưởng sự vinh hoa vẫn tin tưởng vượtlên. Cớ gì ông vua của một nước có vạn cổ xe lại coi thân mình nặng, coi thườngthiên hạ? Coi thường thì bỏ mất cái gốc rễ; nôn nóng thì bỏ mất cái chủ yếu.
*27.A. Kẻ khéo đi không để lạidấu vết; kẻ khéo nói không có chỗ sai để chỉ trích. Kẻ khéo tính toán khôngdùngthẻ tre để tính; kẻ khéo đóng không dùng đến khóa mà người ta chẳng sao mởđược; kẻ khéo buộc không dùng đến dây buộc mà không sao cởi ra được.
B. Vì vậy cho nên bậc thánh nhânbao giờ cũng khéo cứu người, nên không có người bị vứt bỏ; bao giờ cũng khéocứu vật nên không có vật bị vứt bỏ. Không để vật bị vứt bỏ là tập hợp sự sángsuốt.
Vì vậy người thiện là người thầycủa người không thiện; người không thiện là cái chỗ dựa cho người thiện. Nếukhông quí ông thầy của mình; không yêu chỗ dựa của mình thì dù đó là khôn cũngbị mê hoặc lớn. Đó là cái huyền diệu chủ chốt.
*28. Dù biết cái (mặt) trống củanó vẫn giữ cái (mặt) mái của nó, hãy làm cái khe của thiên hạ. Khi làm cái khecủa thiên hạ sẽ không rời khỏi cái Đức vĩnh viễn, lại quay về tình trạng trẻ sơsinh. Dù biết cái (mặt) trắng của nó, ta vẫn giữ cái (mặt) đen của nó. Khi giữcái (mặt) đen của nó, ta làm gương mẫu cho thiên hạ. Dù biết cái (mặt) vinh củanó ta vẫn giữ cái (mặt) nhục của nó, làm cái hang của thiên hạ. Khi làm cáihang của thiên hạ thì cái đức sẽ được đầy đủ. Cái nguyên mộc nếu chia cắt ra sẽthành đồ dùng. Bậc thánh nhân nếu dùng cái nguyên mộc thì sẽ làm người cầm đầucác quan. Cho nên cái qui chế lớn (/đại đế/) không bị chia cắt.
*29.A. Muốn lấy thiên hạ mà làm(theo ý mình) ta thấy điều này không thể được. Thiên hạ là cái đồ vật thầnkhông thể làm (theo ý mình) được. Người làm (theo ý mình) sẽ làm cho nó hỏng.Người cố chấp sẽ làm cho nó mất.
B. Đối với sự vật thì có ngườilàm trước; có người làm theo; có người nôn nóng; có người lạnh nhạt; có ngườicứng rắn; có người mềm yếu; có người bồi đắp; có người hủy hoại (/đây là hànhđộng của người đời/).
C. Cho nên bậc thánh nhân bỏ cáiquá mức; bỏ cái xa hoa; bỏ cái thái quá.
*30.A. Muốn lấy cái Đạo để thờvua thì không dùng binh lực để ép thiên hạ. Việc này sẽ dẫn tới đánh lại. Nơinào đại quân đến thì gai góc mọc. Sau chiến tranh ắt có mất mùa.
B. Cho nên (khéo dùng binh) chỉcần có kết quả tốt mà thôi, không giám tỏ mình mạnh hơn. Đạt được kết quả màchớ kiêu căng; đạt được kết quả mà chớ khoe công; đạt được kết quả mà chớ kiêungạo; đạt được kết quả là vì bất đắc dĩ; đạt được kết quả mà chớ ép buộc.
C. Sự vật tráng thì già đi, đó làchẳng theo Đạo. Chẳng theo Đạo thì mất sớm thôi.
*31.A. Binh khí là vật chẳnglành, súc vật còn ghét nó cho nên con người có Đạo không dùng.
B. Người quân tử khi ở nhà thìcoi trọng bên trái; khi dùng binh thì coi trọng bên phải. Việc binh là cái việcbất tường, bất đắc dĩ mà phải dùng. Điềm đạm là tốt nhất. Chuyện chiến thắng làchuyện không hay, nếu cho nó là hay tức là thích giết người. Phàm là kẻ thíchgiết người thì chẳng có thể được thiên hạ thích.
C. Việc lành chuộng bên trái,việc giữ chuộng bên phải. (Khi dùng binh) thiên tướng quân (/vị tướng dựquyền/) ở bên trái, thượng tướng quân (/vị tướng dự khuyết/) ở bên phải. Nhưvậy xem binh như tang lễ. Kẻ giết nhiều người, nên lấy lòng đau xót mà khóc vớiông ta. Nên lấy tang lễ đối xử với kẻ chiến thắng.
*32.A. Cái Đạo vĩnh viễn không cótên gọi, nguyên mộc. Tuy nó nhỏ nhưng trong thiên hạ không ai sai khiến đượcnó. Các vương hầu nếu nắm được nó thì muôn vật sẽ tự mình phục tùng. Trời vàđất sẽ hòa hợp với nhau, móc ngọt rơi xuống, dân không ai ra lệnh vẫn tự đạtđến sự vừa đều.
B. Khi cái Nguyên lý đầu tiên(/thủy chế/) đã có tên gọi, đã có tên gọi rồi thì ta phải biết ngăn lại. Biếtngăn lại thì mới không nguy hại. Cái Đạo ở trong thiên hạ cũng như suối hangđối với sông biển.
*33. Kẻ biết người là có trí; kẻbiết mình là sáng suốt. Kẻ thắng người ta là có sức; kẻ tự thắng mình là mạnh.Kẻ tri túc (/tự cảm thấy đủ/) thì giàu; kẻ cố gắng thực hiện (Đạo) là người cóchí. Kẻ không bỏ mất cái gốc thì lâu dài. Kẻ chết mà không mất là thọ.
*34. Cái Đạo lớn tràn khắp chừ,có thể ở bên trái, bên phải. Muôn vật nhờ nó mà sinh ra, mà nó không nói. Cônglao hoàn tất rồi mà không làm chủ chúng. Bao giờ cũng không có ham muốn riêng,có thể gọi là Cái Nhỏ. Muôn vật theo về mà không làm chủ nên có thể gọi là CáiLớn. Vì nó rút cục không tự cho mình là lớn nên hoàn thành được cái lớn củamình.
*35. Nắm lấy cái đạo lớn thìthiên hạ sẽ đến theo. Đến theo mà chẳng thiệt hại thì yên ổn thái bình. Âm nhạclàm bánh trái cho khách qua đường dừng chân. Còn cái Đạo nói ra cửa miệng thìlạt lẽo không có mùi vị. Nhìn nó chẳng bõ thấy, lắng tai nghe chẳng bõ nghe,nhưng dùng nó lại không thể hết.
*36. (Cái Đạo muốn rút ngắn mộtvật thì ắt phải cố kéo nó ra. Muốn làm nó yếu đi ắt phải cố làm cho nó mạnhlên. Muốn bỏ nó đi, thì ắt phải đề cao nó. Muốn cướp lấy nó ắt phải cố cho nó.Cái đó gọi là sáng rõ vi diệu. Mềm yếu thắng cứng mạnh. Con cá không thể rakhỏi vực sâu. Cái lợi khí (nguyên lí trị nước) không để cho người ta thấy.
*37. Cái Đạo bao giờ cũng Vô vi,nhưng không việc gì không làm.Các vương hầu nếu tự mình giữ được nó thì muôn vật có thể tự mình thay đổi. Nếuvật tự thay đổi mà người ta muốn tác động vào thì phải lấy cái nguyên mộc khôngcó tên cản lại. Muốn lấy cái không có tên để cản lại thì mình phải không có hammuốn (riêng). Ta không có ham muốn (riêng), dùng cái tĩnh để ứng phó thì thiênhạ sẽ ngay.
*38.A. Cái Đức cao nhất không(chăm chú) lo Đức cho nên có Đức. Cái Đức kém (chỉ lo) không thất Đức cho nênkhông có Đức. Cái Đức cao nhất là Vô vi mà không có cái gì để làm; cái Nhân caonhất có làm nhưng không có cái gì để làm. Cái Nghĩa cao nhất có làm nhưng khôngcó cái để làm. Cái Lễ cao nhất có làm nhưng không ai hưởng ứng, nên giơ cánhtay lôi kéo người ta.
B. Cho nên cái Đạo có mất thì mớisinh ra cái Đức; cái Đức có mất đi thì sau đó mới có chữ Nhân; chữ Nhân có mấtđi thì sau đó mới có chữ Nghĩa, chữ Nghĩa có mất đi thì sau đó mới có chữ Lễ.Phàm chữ Lễ xuất hiện là do chữ Trung, chữ Tín đã mỏng yếu rồi, và là đầu mốicủa loạn. Kẻ biết trước (/trí giả/) là mối họa của Đạo, là nguồn gốc của cáingu.
Vì vậy bậc đại trượng phu ở nơidày không ở nơi mỏng, chuộng cái chất phát, không chuộng cái hoa mỹ. Cho nênông ta bỏ cái thứ hai theo cái thứ nhất.
*39.A. Người xưa lo có được “CáiMột” là vì: Trời mà có được “Cái Một thì trong; đất có được “Cái Một” thì yên;thần mà có được “Cái Một” thì thiêng; hang có được “Cái Một” thì đầy. Muôn vậtcó được “Cái Một” thì sinh ra, các vương hầu có được “Cái Một” thì thành chuẩnmực cho thiên hạ. Tất cả đều lo đạt đến “Cái Một” hết.
B. Nếu trời không có cách đạt đếncái trong thì sẽ vỡ; đất không có cách đạt đến cái yên thì sẽ hỏng; thần khôngcó cách đạt đến cái thiêng thì sợ sẽ tan; các hang không có gì đạt đến cái đầysợ sẽ kiệt; muôn vật không có gì để sống sợ sẽ diệt vong; các vương hầu khôngcó cách đạt đến cái cao quý sợ sẽ mất ngôi.
C. Cho nên cái sang lấy cái hènlàm gốc; cái cao lấy cái thấp làm nền. Cho nên các vương hầu tự xưng mình là“cô” (/con mồ côi/), là “quả” (/ít đức/), là “bất cốc” (/bất thiện/). Đó chẳngphải họ láy cái hèn làm gốc đó sao? Chẳng phải thế sao?
D. Cho nên ca ngợi cao nhất làkhông ca ngợi. Không muốn được người ta quý trọng như viên ngọc đẹp, mà chỉmuốn bị coi thường như sỏi đá.
*40. Trở về, đó là cách vận độngcủa Đạo; yếu mềm đó là cái tác dụng của Đạo. Muôn vật đều do cái Hữu mà sinhra. Cái Hữu do cái Vô mà sinh ra.
*41.A. Kẻ sĩ cao nhất nghe Đạothì chăm chỉ thực hiện. Kẻ sĩ bậc trung nghe Đạo thì vừa nhớ vừa quên. Kẻ sĩkém nghe Đạo thì cười chê Đạo. Nếu anh ta không cả cười thì không đáng gọi làĐạo (/vì Đạo đâu phải dễ hiểu/).
B. Cho nên người xưa nói: “Kẻsáng về Đạo có vẻ như ngu muội; kẻ tiến về Đạo có vẻ như bước lùi; cái Đạo bằngphẳng có vẻ như là khúc khuỷu”.
B. Bậc đức cao nhất có vẻ như làcái hang; cái trắng cao nhất có vẻ như dơ bẩn; cái đức rộng có vẻ như không đủ;cái đức vững chắc có vẻ như là mềm yếu; cái đức chân thực có vẻ như là trốngkhông.
C. Cái vuông cực lớn thì không cógóc; cái đồ dùng cực lớn là xong muộn; cái âm cưc lớn thì ít có tiếng; cái hìnhtượng cực lớn thì không có hình thù; cái Đạo cực lớn thì không có tên. Chỉ cócái Đạo khéo sinh ra và tạo thành muôn vật.
*42.A. Đạo sinh ra “Cái Một”(/Thái cực/); Cái Một sinh ra Cái Hai (/âm dương/); Cái Hai sinh ra Cái Ba (/âmdương và giao hợp của chúng/); Cái Ba sinh ra muôn vật. Muôn vật đều cõng âm,ôm dương, do khí xung khắc nhau mà hòa hợp với nhau.
B. Điều người ta ghét là cô (/mồcôi/), quả (/ít đức/), bất cốc (/ít thiện/), nhưng các vương công lại gọi mìnhlà thế. Các sự vật có khi bớt nó mà lại là thêm, thêm cho nó lại là bớt. Điều(này) người ta dạy, ta cũng đem ra dạy: “Kẻ cương cường thì bất đắc kỳ tử”. Tanay cũng lấy câu ấy làm cái gốc của điều dạy.
*43.A. Cái cực mềm trong thiên hạchi phối cái cực cứng trong thiên hạ; cái không “hữu” (/như ánh sáng/) xuyênqua cái không có chỗ hở (/như tấm kính/). Ta qua đó biết cái có ích của Vô vi.
B. Cách dạy không dùng lời, điềuích lợi của Vô vi, thiên hạ ít người đạt được.
*44. Cái danh và thân mình cáinào thân thiết hơn? Thân mình và của cải cái nào quan trọng hơn? Được và mấtcái nào nguy hại hơn? Vì vậy cho nên yêu thích lắm thì gây tổn thất nhiều; chứachất lắm thì bỏ mất nhiều. Biết tri túc thì không bị nhục; biết dừng thì khôngnguy, có thể lâu dài.
*45.A. Cái đầy đủ nhất vẻ nhưthiếu sót; nhưng công dụng nó không hết. Cái đầy lớn có vẻ như trống rỗng nhưngcông dụng của nó không bao giờ cùng. Người thẳng lớn có vẻ như cong; người khéolớn có vẻ như vụng; người biện luận lớn có vẻ như ấp úng.
B. Tĩnh thắng động; hàn thắngnhiệt; lấy thanh tĩnh để làm cho thiên hạ thành ngay.
*46.A. Khi thiên hạ có Đạo thìdùng ngựa để cày. Khi thiên hạ không có Đạo thì ngựa chiến đẻ con ở ngoại ô.
B. Không có cái họa nào hơn làkhông biết tri túc; không sai lầm nào lớn hơn là tham lam. Cho nên kẻ biết cáiđủ là đủ thì không bị nhục và bao giờ cũng thấy đủ.
*47. Không ra khỏi cửa lớn màbiết thiên hạ; không liếc mắt nhìn cửa sổ mà biết đạo trời. Người đi càng xathì cái biết anh ta càng ít. Vì vậy bậc thánh nhân không đi mà biết; không nhìnmà thấy, không làm mà nên công.
*48. Theo cái học thì ngày mộttăng thêm; theo cái Đạo thì ngày một biết đi. Bớt đi lại bớt đi cho đến Vô vi.
B. Vô vi mà không việc gì khônglàm. Lấy thiên hạ bao giờ cũng bằng vô vi. Còn nếu gây việc thì không đủ để lấythiên hạ.
*49. Bậc thánh nhân không có cáilòng bất biến, lấy lòng thiên hạ làm cái lòng của mình. Người tốt ta tốt vớihọ; người không tốt ta cũng tốt với họ thì được cái tốt. Người đáng tin ta tinhọ; người không đáng tin ta tin họ, thì sẽ được chữ tín. Bậc thánh nhân ở trongthiên hạ, tấm lòng lo cho thiên hạ mà không bộc lộ. Trăm họ đều dồn mắt lắngtai, thánh nhân coi họ đều như trẻ thơ.
*50.A. Vào chết ra sinh. Conđường sống có mười ba đường (/cửu khiếu và bốn chân tay/). Con đường chết cómười ba đường. Con người sinh ra đi tới cái chết cũng có mười ba đường. Tại saothế? Đó là vì lo đến cái sống quá hậu hĩ.
B. Cho nên nghe nói: Kẻ khéonhiếp sinh, đi đường bộ không gặp tê ngưu, hổ. Vào quân đội không bị daothương. Tê ngưu, không có nơi để húc sừng, hổ không có chỗ để trổ móng, binhkhí không có chỗ để đâm mũi nhọn. Tại sao thế? Vì không có chỗ để chết (/họkhông đến những nơi này/).
*51.A. Cái Đạo sinh ra muôn vật,cái Đức nuôi chúng, vật cấp cho chúng hình hài, hoàn cảnh làm cho chúng trưởngthành. Vì thế cho nên muôn vật không vật nào không trọng cái Đạo quý cái Đức.
B. Cái đáng trọng của Đạo, cáiđáng quý của Đức, chẳng do cái gì ra lệnh cả mà là theo tự nhiên. Cho nên cáiĐạo sinh ra muôn vật, cái Đức nuôi chúng, làm cho chúng lớn lên, đùm bọc chúng,làm cho chúng hoàn tất (/đình.), trọn vẹn (/độc/), nuôi nấng chúng, che chởchúng. Cái Đức sinh ra mà không chiếm lấy; làm mà không cậy công; giúp chúnglớn lên mà không làm chủ. Cho nên gọi là cái Đức huyền diệu (/huyền đức/).
*52. Thiên hạ có cái khởi thủy đểlàm bà mẹ thiên hạ. Một khi biết được bà mẹ của muôn vật thì biết được đứa con.Một khi biết được đứa con mà giữ được mẹ thì suốt đời không nguy.
B. Nếu bịt các lối, đóng các cửathì suốt đời không vất vả; nếu mở các lối, bao biện công việc thì suốt đờikhông cứu được.
C. Thấy cái nhỏ kín gọi là sáng,giữ lấy cái mềm gọi là mạnh. Nếu dùng cái ánh sáng (của Đạo) để quay về cáisáng (của mình) thì không có cái gì có thể khiến thân mình bị tai ương. Cái đólà theo cái bất biến (/tập thường/).
*53.A. Nếu ta có một chút khônngoan, thì đi theo đường lớn chỉ sợ đi sai mà thôi. Con đường lớn (/đại Đạo/)rất bằng phẳng nhưng dân lại thích đi theo đường tắt.
B. Triều đình hỗn loạn (/trừ/),ruộng vườn rất hoang vu, kho lương rất trống rỗng. Nhưng lại mặc áo gấm thêu,mang kiếm sắc, lo ăn uống chê chán, có của cải thừa thãi. Đó là bọn trộm cướpđâu phải là Đạo?
*54.A. Kẻ khéo dựng thì không thểnhổ, kẻ khéo ôm thì không thể thoát, con cháu sẽ kế tự không dứt.
B. Trao dồi (Đạo) ở thân mình thìcái Đức của mình sẽ chân thực; trau dồi đạo ở nhà mình thì cái Đức sẽ có thừa;trau dồi nó ở làng thì cái Đức sẽ lâu dài; trau dồi nó ở nước thì cái Đức sẽthịnh; trau dồi nó ở thiên hạ thì cái Đức sẽ lan khắp.
C. Cho nên lấy thân mình mà xétthân mình, hãy lấy nhà mà xét nhà; hãy lấy làng mà xét làng; hãy lấy nước màxét nước; hãy lấy thiên hạ (ngày xưa) mà xét thiên hạ (ngày nay). Ta làm saobiết thiên hạ ra sao? Lấy điều đã nói ở trên đây.
*55.A. Kẻ nào giữ được cái Đứcdồi dào thì có thể sánh với đứa con nhỏ. Độc trùng không chích nó; mãnh thúkhông vồ; chim ác không mổ. Xương nó yếu, gân nó mềm mà chắc; chưa biết giaohợp mà “chim” tự cứng (/vì sinh khí đầy đủ/) vì tinh khí có dư; kêu gào suốtngày mà giọng không khản là hòa hợp hết sức. Biết hòa hợp gọi là bất biến(/thường/); biết cái bất biến là sáng. Lo lắng quá nhiều (/ích/) đến sự sống làcó hại (/tường/). Khi cái tâm bị cái sinh khí sai khiến thì gọi là cường. Vậtmà cường tráng thì sẽ già. Ta gọi nó là không theo cái Đạo. Không theo cái Đạothì chết sớm.
*56.A.Kẻ có trí thì không nói; kẻnói thì không có trí. Hãy bịt các lối đi; đóng các cửa của mình; làm cùn cáisắc của mình; gỡ cái rối; làm cho ánh sáng dịu đi; hòa đồng với bụi bặm. Cái đógọi là sự hòa đồng huyền diệu (/huyền đồng/). Cho nên( con người có Đạo) ngườita không có cách để thân với ông ta; không có cách để xa lánh ông ta; không cócách để làm lợi; không có cách để gây hại; không có cách để tôn quí, không cócách để coi khinh. Cho nên làm thành cái quí trong thiên hạ.
*57. Dùng ngay thẳng để trị nước;dùng mưu mô để chiến đấu; nhưng dùng vô vi để lấy thiên hạ. Ta làm sao biết làthế ? Vì những điều dưới đây:
Khi thiên hạ lắm chuyện kiêng cấmthì dân càng nghèo; khi dân có nhiều mánh khóe mưu lợi (/lợi khí/) thì nước nhàsẽ tối tăm; khi dân nhiều kỹ xảo thì vật lạ càng nẩy sinh; khi pháp lệnh càngrạch ròi (/chương/) thì giặc cướp càng nhiều. Cho nên bậc thánh nhân nói: “Tavô vi mà dân tự họ cải hóa; ta thích yên tĩnh mà dân tự sửa mình theo cái đúng,ta vô sự mà dân tự họ giàu có. Ta không có ham muốn riêng mà dân tự họ trở nênchất phác”.
*58.A. Khi chính sự một nước mờmờ thì dân của nó thuần hậu; khi chính sự một nước rạch ròi thì dân của nó rốiren. Cái họa là nơi cái phúc nương náu; cái phúc là nơi cái họa ẩn nấp. Ai biếtđược kết quả của nó ra sao? Chẳng ai xác định được. Cái ngay lại biến thành cáimánh khóe; cái thiện lại biến thành cái gian dối. Cái mê muội của người đời đãlâu ngày lắm rồi.
B. Cho nên bậc thánh nhân để mìnhvuông vắn mà không cắt nó, mình liêm khiết mà không làm thương tổn người khác;mình trực mà không ngang ngược, mình sáng mà không chói lòa.
*59. Trị người, thờ trời không gìbằng tiết kiệm. Bởi vì chỉ có tiết kiệm thì mới sớm trở về với Đạo (/tảnphục/); sớm trở về với Đạo gọi là coi trọng việc tích Đức. Nếu coi trọng việctích đức thì không có điều gì không khắc phục được. Một khi không có điều gìkhông khắc phục được thì không ai biết được cái cùng cực; khi không ai biếtđược cái cùng cực thì có thể giữ được nước, có thể có bà Mẹ của nước, có thểtrường cửu. Cái đó gọi là “rễ sâu gốc vững”, cái đạo trường sinh nhờ cậy lâu.
*60.A. Cai trị một nước có vẻ nhưnấu con cá nhỏ. Dùng đạo để cai trị thiên hạ thì quỷ không thiêng. Không phảiquỷ không thiêng mà cái thiêng của quỷ không làm người bị thương tổn. Khôngphải cái thiêng của quỷ không làm người bị thương tồn mà thánh nhân cũng khônglàm người bị thương tổn. Vì hai bên không làm nhau bị thương tổn, cho nên cáiđức của cả hai giao tiếp về cùng một nơi.
*61. Nếu nước lớn chịu ở chỗ thấpsẽ là nơi quy tụ (/giao/) của thiên hạ. Con cái thường lấy cái tĩnh để thắng conđực, (vì) lấy cái tĩnh làm chỗ thấp. Cho nên nước lớn biết hạ mình trước nướcnhỏ sẽ lấy được nước nhỏ. Nước nhỏ biết hạ mình trước nước lớn sẽ lấy được nướclớn.
Cho nên hoặc chịu lún (/hạ/) đểlấy; hoặc là chịu lún để được che chở. Nước lớn chẳng qua muốn kiêm tính đểnuôi người; nước nhỏ chẳng qua muốn nhập vào để nhờ người. Cả hai bên đều đạtđược điều mong muốn, cho nên kẻ lớn nên chịu lún.
*62.A. Cái Đạo là nơi sâu kín củamuôn vật, cái quý báu của người thiện, cái người bất thiện nhờ đó được nươngtựa. Lời nói tốt đẹp có thể làm cho thêm tôn quý (/thị tôn/). Hành động tốt đẹpcó thể đề cao con người. Sao lại vứt bỏ những người bất thiện?
B. Cho nên tuy được lập làm thiêntử, được địa vị tam công, tuy tay cầm ngọc bích ngồi xe bốn ngựa kéo, nhưng vẫnkhông bằng quỳ dâng cái đạo này? Chẳng phải nói (/viết/) do cầu gì được nấy, cótội được miễn tội đó sao? Vì vậy nó là quý trong thiên hạ.
*63.A. Làm cái vô vi; theo cái vôsự; nếm cái không có mùi vị. Xem cái lớn như cái nhỏ, cái nhiều như cái ít lànhư nhau. Lấy đức để báo oán. Lo liệu việc khó từ khi nó còn dễ; làm việc lớntừ khi nó còn nhỏ. Việc khó trong thiên hạ nhất định phải làm từ chỗ dễ; việclớn trong thiên hạ, nhất định phải làm từ chỗ nhỏ bé.
B. Cho nên bậc thánh nhân suốtđời không làm việc gì lớn cho nên có thể làm nên việc lớn. Phàm ai hứa dễ dàngthì chắc chắn ít giữ chữ tín. Xem việc quá dễ sẽ gặp nhiều cái khó. Bậc thánhnhân coi nó khó nên suốt đời không gặp việc khó.
*64.A. Khi tình hình đang yên thìdễ nắm giữ; khi cái mầm chưa lộ thì dễ lo liệu; khi vật đang mềm thì dễ chiacắt; khi vật còn nhỏ thì dễ phân tán. Phải làm từ khi nó chưa còn xuất hiện;phải trị từ khi chưa loạn. Cây gỗ đầy một ôm sinh ra từ cái mầm con; cái đàichín từng bắt đầu từ một sọt đất; chuyến đi xa ngàn dặm bắt đầu ở dưới chân.
B. Kẻ nào làm (theo ý mình) thì làm cho việc hỏng; kẻ nào cố chấp thìthất bại. Cho nên bậc thánh nhân vô vi nên không thất bại; không cố chấp nênkhông mất.
C. Người ta lo cho công việc làm cho công việc hỏng khi sắp hoàn thành.Phải cẩn thận lúc kết thúc như lúc đầu tiên thì sẽ không bị thất bại.
Cho nên bậc thánh nhân muốn mình không muốn, không quý những của cải khó kiếm,học cái không học (/ không phải do học vấn có được/), làm cho mọi người trở vềcái họ đã trải qua (/thời đứa trẻ sơ sinh/). Giúp theo cái tự nhiên của muôn vậtmà không dám làm (theo ý mình).
*65.A. Cho nên người xưa khéo thi hành cái Đạo thì không phải làm cho dânchúng khôn ra, mà làm cho dân chúng ngu đi. Sở dĩ dân chúng khó trị là vì tríkhôn của họ lắm. Cho nên ai muốn lấy trí khôn để cai trị nước thì đó là giặc củanước; không lấy trí khôn để trị nước đó là phúc của nước.
B. Nắm lấy hai cái trên chính là quy tắc (để trị nước). Việc luôn luôn biếtcái quy tắc này, đó là Đức huyền diệu (/huyền đức/). Cái đức huyền diệu xa thẳm,xa vời. Nó trở về với vật rồi sau đó đạt tới cái thuận to lớn (/đại thuận/).
*66. Sở dĩ sông và biển có thể làm vị vua của trăm hang là vì nó khéo ởdưới thấp (so với hang) cho nên có thể làm vua của trăm hang.
Cho nên muốn ở trên dân chúng thì phải dùng lời nói để nhún mình; muốn ởtrước dân chúng thì phải đặt thân mình sau dân chúng. Chính vì vậy, cho nên,thánh nhân ở trên mà dân không cho là nặng; mình ở trước mà dân không cho là cóhại cho họ. Cho nên, thiên hạ vui lòng ủng hộ mà không chán. Vì thánh nhânkhông tranh dành cho nên thiên hạ không ai tranh giành được với ông ta.
*67.A. Thiên hạ đều bảo cái Đạo của ta lớn, có vẻ như không giống cái gìhết. Vì nó lớn cho nên nó không giống cái gì hết. Ví thử nó giống một vật nàođấy thì từ lâu nó đã nhỏ mất rồi!
B. Ta có ba cái quý: Cái thứ nhất là “Nhân từ”; cái thứ hai là “Tiết kiệm”;cái thứ ba là “Không dám xem mình trước thiên hạ”. Vì nhân tử cho nên có thểdũng cảm. Vì tiết kiệm cho nên có thể mở rộng. Vì không dám xem mình trướcthiên hạ cho nên có thể trở thành chúa tể của mọi vật (/khí trưởng/).
C. Nay nếu như bỏ nhân từ mà lo dũng cảm; bỏ tiết kiệm mà muốn mở rộng; bỏviệc ở sau mà lo đứng trước thì chết. Phàm lấy nhân từ để chiến đấu thì thắng,để giữ thì vững chắc. Nếu trời muốn cứu ai thì do người ấy đã lấy nhân từ để tựbảo vệ mình.
*68. Kẻ làm tướng (/sĩ/) giỏi không dùng vũ lực; người chiến đấu giỏi khôngnổi giận; người khéo chiến chiến thắng địch thì không giao chiến. Người khéodùng người thì đặt mình dưới người ta. Cái đó gọi là cái đức của việc khôngtranh giành. Cái đó gọi là cái đức của việc dùng người. Cái đó gọi là chỗ cùngcực của cái đạo trời từ xưa.
*69. Cách dùng binh có câu: “Ta không giám làm người chủ (để đánh) mà làmngười khách (để đối phó), không dám tiến lên một tấc mà rút lui một thước.”
Cái đó gọi là đi mà không dàn binh; đuổi mà không giơ tay; nắm mà khôngdùng binh khí; bắt giữ  mà không giaochiến với địch. Không có tai họa nào lớn hơn khinh địch. Khinh địch, thì sẽ bỏmất cái quý của ta, bên nào nhân từ thì bên ấy chiến thắng.
*70. Lời nói của ta biết rất dễ; làm rất dễ. Thiên hạ chẳng ai biết; chẳngai làm. Lời của ta có gốc; việc làm của ta có căn cứ. Vì thiên hạ không ai hiểuđược (điều này) cho nên họ chẳng hiểu ta. Ai hiểu ta, thì ta quý. Vì vậy bậcthánh nhân mặc áo vải thô mà lòng ôm ngọc.
-*71. Biết mà làm như không biết là cao nhất. Không biết mà làm ra vẻ biếtlà bệnh. Vì  mình biết đó là bệnh cho nênchẳng có bệnh. Bậc thánh nhân biết đó là bệnh cho nên không có bệnh.
*72. Dân không sợ uy hiếp thì cái uy hiếp lớn sẽ đến. Chớ chê nơi ở của mìnhchật chội, chớ chán cách sống của mình. Vì mình không chê nên không chán. Cho nênbậc thánh nhân tuy biết mình nhưng không nêu cao mình, tuy tự yêu mình, nhưngkhông tự quý trọng mình. Cho nên bỏ cái thứ hai mà theo cái thứ nhất.
*73. Kẻ dũng ở chỗ giám làm thì sẽ bị giết; kẻ dũng ở chỗ không dám làm thìsẽ sống. Hai cái trên đây có môt cái có lợi, một cái có hại. Cái điều trời ghétcó ai biết lý do không? Cho nên bậc thánh nhân còn cho điều ấy khó. Cái đạo củatrời không tranh dành mà khéo thắng; không nói mà khéo ứng, không gọi mà tự đến;thản nhiên mà khéo mưu tính. Lưới trời lồng lộng, tuy thưa nhưng lại chẳng thểlọt.
*74. Dân chúng không sợ chết, cớ gì lấy cái chết để đe dọa họ? Nếu ta khiếndân chúng bao giờ cũng sợ chết, rồi có kẻ nào làm chuyện xằng bậy thì ta bắt vàgiết đi, thì ai dám (Iàm bậy)? Đạo có cái lo việc giết để giết. Nếu ta thay thếcái lo việc giết này mà giết thì cũng như thay thợ mộc mà đẽo, ít có người khỏiđứt tay vậy.
*75. Dân mà đói là do người trên đánh thuế nhiều cho nên đói. Dân mà khótrị là do vì người trên thi hành lối “hữu vi” (/chính sự phiền hà/), cho nênkhó trị. Dân mà coi thường cái chết là vì do người trên lo cái sống của họ quánặng, cho nên dân khinh cái chết. Phàm người quan tâm tới việc không coi trọngchuyện mưu sinh là giỏi hơn kẻ quý trọng việc mưu sinh.
*76. Con người khi sống thì mềm yếu khi chết thì cứng nhắc. Muôn vật, câycỏ khi sống đều mềm yếu, mà khi chết đều khô cứng. Cho nên cứng rắn là conđường chết; mềm yếu là con đường sống. Cho nên, binh mạnh thì chẳng thắng, câycứng thì bị chặt. Cho nên cứng và lớn ở bực dưới; mềm yếu ở bực trên.
*77. Cái Đạo của trời giống như trương cây cung chăng? Cây cung khi cao thìhạ thấp xuống, khi thấp thì đưa nó lên. Thừa thì bớt, thiếu thì bù. Đạo trườibớt chỗ thừa mà bù vào chỗ thiếu. Đạo người sao lại không thế. Nó bớt chỗ thiếuđể phụng sự chỗ thừa. Ai có thể lấy cái chỗ thừa để phục vụ cho thiên hạ? Chỉcó người có đạo. Cho nên, bậc thánh nhân làm mà không cậy công, công đã thànhmà không cho là của mình. Ông ta không muốn trổ cái tài giỏi của mình.

*77. Cái đạo của trời giống nhưtrương cây cung chăng? Cây cung khi cao thì hạ thấp nó xuống khi thấp thì hạ nóxuống, khi thấp thì hạ nó lên. Thừa thì bớt, thiếu thì bù. Đạo trời bớt chỗthừa mà bù vào chỗ thiếu. Đạo người thì không thế. Nó bớt chỗ thiếu để phụng sựchỗ thừa. Ai có thể lấy cái chỗ thừa để phục vụ thiên hạ? chỉ có người có đạo.Cho nên bậc thánh nhân làm mà không cậy công, công đã thành mà không cho là củamình. Ông ta không muốn trổ cái tài giỏi của mình.

*78. Trong thiên hạ không có cáigì mềm yếu hơn nước, nhưng việc công phá cái cứng rắn không có cái gì hơn nước,không có cái gì thay thế được nó. Yếu thắng mạnh, mềm thắng cứng, thiên hạkhông ai không biết điều này, cũng không (không?) ai thi hành được. Vì vậy chonên bậc thánh nhân nói: “ Kẻ chịu cái nhơ bẩn của thiên hạ thì làm chủ xã tắc;chịu cái không may của nước thì làm vương thiên hạ. Lời ngay nghe như trái ngược.”

*79. Nếu giải hòa được cái oán lớnthế nào cũng còn cái oán nhỏ sót lại, làm sao có thể là điều thiện được? Vì vậycho nên bậc thánh nhân cầm nửa tờ giao kèo bên trái mà không trách cứ người ta,người không có đức lo thu thuế, Đạo trời không thân ai, thường giúp ngườithiện.

*80. Nước nhỏ, dân ít. Tuy códụng cụ gấp mười, gấp trăm(sức người) cũng không dùng. Khiến dân coi trọng cáichết mà không đi xa. Tuy có thuyền, xe cũng không ai lên; tuy có binh khí cũngkhông trưng bày. Khiến dân trở lại dùng tục thắt nút. Cho thức ăn của mình là ngon;cho quần áo mình là đẹp; bằng lòng với nơi ở của mình; vui với tục lệ của mình.Các nước láng giềng trông thấy nhau, nghe tiếng gà, tiếng chó của nhau. Dân đếngià, chết không qua lại với nhau.

*81. Lời nói đáng tin không đẹp;lời nói đẹp không đáng tin. Người thiện không tranh biện; người tranh biệnkhông thiện. Người có trí không biết rộng; người biết rộng không có trí. Bậcthánh nhân không tích lũy, càng giúp đỡ cho người ta lại càng có thừa; càng chongười ta thì mình lại càng có nhiều. Đạo trời làm lợi (cho muôn vật) mà khônglàm hại. Cái đạo của bậc thánh nhân làm mà không tranh giành.

Giấc mơ Mỹ (Aziz Nesin)

Giấc mơ Mỹ (Aziz Nesin)
Tôi nằm mơ thấy mình là một nhân vật quan trọng đi thăm Oasinhtơn. Những người Mỹ đã đón tôi một cách trọng thể. Đáp lời một ông chủ nào đó tôi đã đọc một bài diễn văn dài:
-Chúng tôi... Các ngài... Từ chúng tôi - gửi tới các ngài... Từ ngài đến chúng tôi... Nhờ sự giúp đỡ... Cả chúng tôi lẫn các ngài... Tất cả những gì ở nước chúng tôi...Chúng tôi và các ngài... Cùng sát cánh... Cuộc đấu tranh... Đối với các ngài... Nhân đạo... dân chủ... Chúng tôi... Tự do... Các ngài... Đô la và các ngài?... Không bao giờ!... Chúng tôi muôn năm!...
Những tràng pháo tay vang dội. Những phóng viên chớp máy lia lịa chụp hình tôi. 
Một trong những chính khách lớn của Mỹ tuyên bố:
-Lịch sử quan hệ quốc tế chưa bao giờ được nghe những lời diễn văn nào tuyệt vời hơn những lời ngài vừa phát biểu. Xin chúc mừng...
Cuộc duyệt đội danh dự bắt đầu. Tôi chào mừng, như người ta thường chúc mừng "những lực lượng vũ trang nhưng không vũ trang" của Mĩ. Nói thật, mắt tôi cứ trố ra. Bên phải tôi là những cô gái tóc vàng bốc lửa, bên trái tôi là những cô gái tóc đen khêu gợi, xa hơn chút là những quả bom khinh khí, bom cooban. Đằng sau chúng là những hoa hậu bán kem, hoa hậu bán rau, hoa hậu áo tắm, hoa hậu "câu lạc bộ người hâm mộ".
Bỗng người ta bảo tôi:
Xin mời Ngài vào Nhà trắng.
Hóa ra tôi phải chủ trì một cuộc họp báo. Những nhà báo vây quanh tôi tranh nhau hỏi.
Tôi ngăn họ lại:
-Chỉ xin các vị đừng hỏi cùng một lúc. Chúng ta không phải đang ở trong nhà tắm nữ... Xin hỏi từng người một.

Một vị tổng biên tập cộng tác cùng một lúc cho ba mươi sáu tờ báo của Mĩ muốn biết:
-Một tổng biên tập ở nước Thổ Nhĩ Kỳ của ngài viết một lúc cho bao nhiêu tờ báo?
-Ở nước chúng tôi, - tôi đáp - mỗi tờ báo đều có một tổng biên tập của mình, nhưng tất cả họ đều viết một giọng giống nhau.
-Làm sao những người khác nhau lại có thể viết cùng một giọng giống nhau?
-Thế nào là "khác nhau"? ở nước chúng tôi không có chuyện như vậy. Ở nước chúng tôi tất cả đều thống nhất, đoàn kết, vân vân và vân vân. Các vị hiểu chứ?
-Thế nước các ngài có dân chủ không?
-Dân chủ đó là cho nhân dân, vì nhân dân, từ nhân dân, trong nhân dân... và vân vân theo tinh thần như thế.
Một phóng viên của tờ báo có lượng phát hành hai triệu bản hỏi:
-Dân chúng nước ngài hiện đang quan tâm những sự kiện quan trọng nào?
-Ồ có những sự kiện như vậy nhiều lắm!... Thứ nhất là vấn đề những chiếc váy ngắn của phụ nữ. Nó làm cả nước chúng tôi náo động khiến mọi người quên đi cả chuyện thiếu đường, thiếu cà chua, dân chủ và nhiều thứ khác :-D .Thứ hai, từ bé đến lớn đều chờ đợi xem cầu thủ bóng đá Chetin có được chuyển từ đội "Fenebarche" sang đội "Vefa" không. À, suýt nữa thì quên!... Nước chúng tôi vừa đóng xong tàu thủy "Abidin Daver", nhưng xảy ra sự cố : người ta không làm sao hạ thủy được nó ra khỏi cái triền đà.
-Tại sao vậy?
-Vì đúng vào lúc giờ hạ thủy bắt đầu thì xuất hiện một diễn giả. Ông ta bắt đầu nói và nói liên tục cho đến tận lúc trời tối, khi mỡ bắt đầu khô trên các triền đà. Thế là chúng tôi làm sao cho hạ thủy chiếc tàu được.. Lúc đó chúng tôi mới quyết định: một khi đã Không làm cách nào cho tàu xuống nước được thì sẽ kéo biển vào sát bờ... (hết trích)

Vì sao mèo cúp đuôi chạy?

Azít Nêxin
Vì sao mèo cúp đuôi chạy?
Bất kỳ việc gì cũng có cái "tại sao"của nó.
Không, câu mở đầu như thế chưa được! Phải bắt đầu bằng 1 câu gì nghe triết lýhơn kia! Hay thế này vậy: "Dù thế nào thì thế, sau cơn bực dọc, người tacần phải được trở về trạng thái bình tĩnh."
Thực ra thì câu này nghe cũng chưa ổn. Có lẽ những lời nói vĩ đại chỉ có ởmiệng các bậc vĩ nhân mà thôi! Chính vì thế mà lúc nào tôi cũng thấy thương chocái thân phận mình. Truyện nào tôi cũng bắt đầu bằng 1 câu đáng được lưu truyềnthiên cổ. Thế mà tuyệt đối không 1 ai thèm coi cả tôi lẫn những lời nói của tôira cái gì cả! Mà bạn tưởng các bậc vĩ nhân phát ra được những câu gì đặc biệtlắm sao? Có 1 bậc vĩ nhân bảo: "Mùa hè nóng." Thế là mọi người rốirít ca tụng: "Trời ơi! Chí lý biết chừng nào, sâu sắc biết chừng nào! Cáichân lý vĩ đại mà nhân loại phải tìm kiếm hàng trăm năm nay, đã được Ngài nóira trong 3 chữ!"
1 vĩ nhân khác trước lúc tắt thở thốt lên: "Mở cửa ra!". Người ta lạiđưa nhau bình phẩm: "Chà! Cả 1 ý tưởng vĩ đại chứa đựng trong câu nóithiên tài! Chỉ bằng mấy chữ, nhà tiên tri đã vạch đường cho hậu thế!"
"Mở cửa ra!" Câu đó nghĩa là gì?
Muốn hiểu hết ý nghĩa thâm thuý của mấy chữ này cứ gọi là phải viết hàng núisách! Vì thâm ý vĩ nhân muốn nói rằng...
Mà đã là bậc vĩ nhân thì Người muốn nói gì? "Này hỡi nhân loại! Đừng có rurú trong cái xó chuồng tăm tối như bầy lừa ấy nữa! Hãy mở cửa ra cho ánh sángkiến thức rọi chiếu vào!"
Hoặc giả Người ta muốn nói: "Hãy mở cửa ra mà nhìn thế giới! Cho ánh sángkiến thức soi rọi vào cái đầu óc ngu dốt của các người!"
Thế nhưng cũng như tất cả mọi người bình thường khác, trong lúc hấp hối thấykhó thở, nên bậc vĩ nhân yêu cầu "mở cửa ra" cho dễ thở hơn chút. Cóthế thôi!
Sau này chết đi, sang bên kia thế giới, việc trước tiên là tôi phải tìm ngayGớt và hỏi ông:
-Người ta bảo trước lúc vĩnh biệt cõi trần, ngài có noi: "Vén rèm lên chosáng thêm 1 chút!" Vậy ngài nói câu ấy là có ý sâu xa gì không?
Tôi chắc thế nào Gớt cũng mỉm cười mà bảo:
-Thật tôi có nói "Cho sáng thêm 1 chút" à? Chắc vì lúc đó tôi thấymắt tự nhiên tối sầm lại, nên bảo vén rèm lên để nhìn rõ mọi người xung quanh.Thế thôi!
...Tôi đang đi trên đường. Bỗng từ ngôi nhà nọ, 1 chú mèo phóng như bay, rồithoáng sau thì mất hút. Chính vì chú mèo này mà tôi cứ phải suy nghĩ mãi. Vìsao nó lại gào lên 1 cách thảm thiết như vậy? Bất kỳ chuyện gì, như tôi đã nói,cũng có cái tại sao của nó. Vậy thì tại sao chú mèo cúp đuôi chạy?
Đó chính là câu chuyện tôi sắp kể cho các bạn nghe bây giờ đây. Tôi sẽ thuậtlại đầy đủ, theo đúng trình tự. Có điều tôi không biết nên chọn phương pháp nàocho thích hợp? Phương pháp dân chủ, từ dưới lên trên, hay phương pháp truyềnthống phương Đông, từ trên xuống dưới? Nghĩa là bắt đầu từ chú mèo đến ngàiTổng trưởng, hay từ ngài Tổng trưởng xuống đến chú mèo? Không! Dẫu sao thì cũngkhông nên bỏ các truyền thống của ta!
Vậy thì đầu đuôi câu chuyện của chúng ta nó như thế này:
1 hôm, tất cả các báo, cứ y như là bảo nhau, nhất loạt lên tiếng công kích 1 vịTổng trưởng nọ. Điều đó, làm vị Tổng trưởng hết sức đau buồn, đến nỗi Ngàikhông biết làm gì nữa. Mà hễ khi nào thấy buồn bực trong lòng và không biết làmgì nữa, là y như rằng ngài cho gọi ông phụ tá đến... Ngài đặt cho ông ta 1 câuhỏi. Ông phụ tá trả lời. Ngài lại đặt câu hỏi khác. Ông phụ tá lại trả lời rấtrành rọt. Thành ra Ngài không có cớ gì để trút nỗi bực lên đầu ông ta được.Nhưng chết cái là, dù thế nào thì thế, sau lúc bực dọc, người ta cần chết cáilà, dù thế nào thì thế, sau lúc bực dọc, người ta cần phải được trở về trạngthái bình tĩnh! Ngài Tổng trưởng lại đọc tiếp câu hỏi thứ 3. Ông phụ tá tườngtrình lại cận kẽ cách thức ông giải quyết công việc đó ra làm sao. Thế là cơndông tố nổ ra! Không phải làm như thế! Làm như thế là không được! Hoàn toànkhông thể được!... Có thể được chứ ạ! Không thể được!... Được chứ ạ! Khô...ô...ng đ.ư.ợ.c! Ngài Tổng trưởng hả lắm: thế là cuối cùng ngài đã nguôi đượccơn giận. Ngài đã xạc cho ông phụ tá 1 trận nên thân. Bây giờ ngài mới cảm thấybình tĩnh lại.
"Dù thế nào thì thế, sau cơn bực dọc người ta cần phải được trở về trạngthái bình tĩnh." Nhưng ông phụ tá làm thế nào để bình tĩnh lại được? Xintừ chức à? Không được! Vì cớ gì? Ông bèn hỏi ông chánh văn phòng 1 câu. Ôngchánh văn phòng trả lời. Ông hỏi tiếp câu nữa. Ông chánh văn phòng vẫn trả lờiđược. Nhưng được thì được, chứ trong lúc trả lời, ông chánh văn phòng vẫn khôngtránh khỏi sơ xuất. Xong rồi! Ông phụ tá cho gọi viên thư ký đến.
-Viết đi! Ông ra lệnh cho người thư ký.
Ông phụ tá đọc cho người thư ký chép 1 lúc lâu và thấy cơn giận nguôi dần. Lạytrời! Giá ông không trút bỏ được nỗi bực thì ruột gan ông đến vỡ tung ra mất!Rồi cả gia đình ông cũng vì thế mà mất hết bình tĩnh, sẽ quay ra cáu gắt nhaumất!
May lắm! Nhưng còn ông chánh văn phòng thì biết làm sao đây? Làm sao đây? Làmsao ông có thể ngậm viên bồ hòn ông phụ tá vừa tặng ông mà lấy làm ngọt được!Ông bèn ấn nút chuông:
-Gọi cho tôi ông thanh tra Ali vào đây!
-Thưa ông, ông Ali đi thanh tra đã 10 hôm nay rồi ạ!
-Thì gọi ông Vêli!
-Thưa ông, vâng.
Ông thanh tra Vêli vào:
-Bẩm ông cho gọi tôi?
-Ông đã làm xong cái việc tôi giao chưa?
-Bẩm ông đã ạ!
-Còn việc kia?
-Bẩm việc kia cũng xong rồi ạ!
-Ông nói rõ xem xong là xong thế nào?
Ông Vêli trình bày lại cặn kẽ đầu đuôi.
-Nhưng có phải làm như thế đâu? Hoàn toàn không phải! Ai bảo ông làm như thế?Làm thế là láo toét! Láo toét hết! Ông hiểu chứ? Ôi! Lạy Đức Ala!
Ông chánh văn phòng gắt ngậu cả lên. Vì nếu không gắt thế, ông đến tắc thở mất!
Đến lượt ông thanh tra thấy tức quá! Nhưng biết làm thế nào? Chả lẽ chịu cảm à?Không! Thế này thì tức lắm, không chịu được!
-Ông trưởng phòng!
-Dạ, ông bảo gì ạ?
-Sáng nay tôi dặn ông cái gì?
-Sáng nay ạ? Bẩm ông không có dặn gì cả!
-Vô lý, không có lẽ!
-Sáng nay nào tôi có gặp ông đâu ạ!
-Nếu vậy thì sáng hôm qua?
-Hôm qua ông bị mệt không đến sở ạ.
-Thế thì sáng hôm kia!
-Sáng hôm kia ông có dặn là...
-Nghĩa là tôi có dặn chứ gì? Nhưng tôi dặn cái gì mới được chứ? Tại sao ôngkhông làm tròn trách nhiệm? Thái độ của ông như vậy là không thể dung thử được,ông hiểu chưa? Không thể được! Tôi cấm đấy!... Cương quyết cấm!
Mặt ông trưởng phòng dài thưỡn ra. Nhưng dù thế nào thì thế, sau lúc bực dọc,người ta cần phải được trở về trạng thái bình tĩnh.
-Gọi ông phó phòng vào đây!
Ông phó phòng vào. Ông trưởng phòng hỏi:
-Biểu "Đ" ông làm xong chưa?
-Thưa ông đã!
-Xong toàn bộ chứ?
-Xong toàn bộ ạ!
-Thế các tờ phiếu đã ghim lại với nhau chưa?
-Ghim rồi ạ!
Làm gì mà cứ phải đúng răm rắp thế nhỉ?
-Thế gửi đi chưa?
-Thưa đã ạ!
Cứ làm như không thể chậm lại được ấy!
-Gửi bao giờ?
-Hôm qua ạ!
-Sao? Hôm qua à? Sao lại chểnh mảng đến thế được nhỉ? Cái kiểu đâu lại đổ đốnnhư vậy? Phải làm việc chứ! Làm việc! Làm việc hàng ngày! Tôi yêu cầu ông! Ôngrõ chưa?
Chao ôi! Khi trút được cơn bực, người ta cảm thấy nhẹ nhõm làm sao!
Ông phó phòng bước vào phòng ông trưởng bộ phận. Ông thở 1 cách nặng nhọc.
-Cái gì thế này?
-Chứng từ để chuyển sang phòng kế toán đấy ạ!
-Ra thế đấy!... Thế là rõ rồi. Đến giờ mà vẫn còn ngổn ngang bừa bãi thế này...Lại còn cả đống này nữa này...
Ông phó phòng vừa bước ra, ông trưởng bộ phận tức giận đấm bốp 1 cái xuống bàn:
-Haxan đâu?
-Haxan nào ạ? Haxan bộ phận 2 hay Haxan kế toán ạ? Lại còn Haxan làm ở phòngđăng lục nữa ạ! Hay ông muốn gọi ông Haxan lục sự?
-Lôi cổ đến đây bất cứ thằng Haxan nào cũng được! Nghĩa là cứ gọi cho tôi tayHaxan lục sự ấy!
-Thưa ông đã có chuông nghỉ, ông ấy đi ăn cơm rồi ạ!
-Nếu vậy... anh tên là gì?
-Huyxên.
-Huyxên hay Muyxên cũng vậy thôi! Tôi bảo cho các anh biết, tất cả lũ cácanh...
Ông trưởng ban nổi trận lôi đình khoảng 10'. Cuối cùng ông thấy nguôi giận, rờikhỏi sở.
Còn Huyxên thì quay sang hạch sách ông văn thư. Cửa kính sao lại bẩn thế này?Trần nhà gì mà đẩy mạng nhện thế kia? Bàn nào cũng đầy bụi. Sàn nhà thì chẳngchịu lau chùi gì cả... Không thể chịu được! Không chịu được! Hiểu chưa? Hả!...
Ra khỏi sở, Huyxên cũng thấy nhẹ nhõm hẳn, cái nhẹ nhõm hẳn, cái nhẹ nhõm củangười trút bỏ được cái ác bông nặng trĩu khi vụ rét vừa hết.
Ông văn thư định trút giận lên đầu người gác cửa, nhưng ông này lại về nhà mấtrồi. Làm sao bây giờ? Dù thế nào thì thế, sau cơn bực dọc, người ta cần phảiđược trở về trạng thái bình tĩnh. Ông văn thư bước lên xe điện.
-Cái nhà anh này! Dẫm cả vào chân người ta! - ông bắt đầu sinh sự với ông kháchđứng bên cạnh - Chân cẳng cứ xéo bừa đi, chẳng nhìn gì hết!
Ông khách im không nói.
Người soát vé tiến đến.
-Ông lấy vé đi!
-Anh không thấy tôi đang bị ép thế này à? Cả 2 tay đều không nhúc nhích nổi thìlàm sao mà rút được ví? Lúc nào xuống tôi sẽ mua!
-Không được!
-Sao lại không được?
-Đã bảo không được là không được! Ngộ nhỡ nhân viên kiểm tra đến thì làm sao?
Thế là thành to tiếng. Rốt cuộc, ông văn thư cũng tìm được người để trút giận.
Hết chuyến cuối cúng, người soát vé trở về nhà. Chị vợ toét miệng cười khi thấyanh về.
-Làm cái gì mà nghe răng như cái con khỉ thế? - anh soát vé bỗng thấy điên tiết- Cái thằng bố mày đây đứa nào cũng bắt nạt được, mà mày còn...
Chửi mắng vợ 1 trận nên thân xong, anh ngồi vào bàn điềm nhiên xới cơm ăn.
Chị vợ thì bắt đầu thút tha thút thít. Trong lúc đó, chú mèo cứ quẩn dưới chân.Cáu tiết, chị đá cho nó 2 cái vào lưng. Thế là chú mèo ngheo lên 1 tiếng thảmthiết rồi nhảy bổ ra đường.
Chị vợ anh soát vé nép sát vào người chồng. Tình yêu đằm thắm nhất thường đếnsau nước mắt. Cả đôi đều đã bình tâm lại.
"Bấy kỳ việc gì cũng có tại sao của nó". Ví thử các báo đừng côngkích ngài Tổng trưởng, thì việc gì chú mèo tội nghiệp nhảy bổ ra đường!
Con người dù sao cũng khôn ngoan, biết cách trở về trạng thái bình tĩnh. Nhưngcòn chú mèo? Chú nhảy bổ đi mất như hoá dại. Liệu rồi chú có lấy lại được bìnhtĩnh hay không?
Điều ấy đến bây giờ tôi vẫn chưa dám chắc.

Chúng ta cùng bay lên mặt trăng Aziz Nesin

Qua báo chí chúng ta biết dường như ở Mĩ có các tổ chức và các hội rất độc đáo, kiểu như "Hội những người có sáu ngón chân", "Hội những người đàn ông có cỡ chân từ 47 trở lên", "Hội những ông chồng bị vợ đánh đập hàng ngày" và vân vân...
Nhưng chúng ta đâu có kém gì họ? Đây này, mới đây nước ta đã thành lập "Hội những người bay lên mặt trăng". Và tôi thích cái hội này. Vì không nói gì đến Pari hay Nữu Ước, mà ngay cả Ankara hay In dơ mia tôi cũng không thể nào đi nổi. Cuộc hành trình dài nhất mà tôi có khả năng thực hiện là theo tuyến tàu điện Sisli -Sirkeyzhi. Vậy thì một khi tôi không có khả năng đi đâu xa thì ít nhất tôi cũng sẽ bay lên mặt trăng vậy.
Thế là tôi trở thành hội viên của "Hội những người bay lên mặt trăng". Tôi trở về nhà trong lòng tràn ngập một niềm hi vọng, sung sướng về tương lai, với một ước mơ bay lên mặt trăng. Tôi ráng sức ăn. Sau khi đã no căng bụng tôi ra ngồi cạnh lò sưởi và lập tức thiếp đi. Và tôi cảm thấy hình như dưới lớp da của tôi không còn thịt xương và máu nữa, mà thay vào đó là một thứ khí nhẹ tựa như khói lửa từ rơm. Rồi tôi bắt đầu bay lên cao, như một quả bóng bay bị thả dây ra.
-Bay đi, bố, bay đi!...
Tôi bay mỗi lúc một cao hơn...
Lúc đầu tôi bay cao hơn "giá củi", sau đó bay đó bay cao hơn "giá thuê nhà", rồi tiếp tục bay cao hơn các thứ "giá ở chợ đen".
Rồi tôi bắt đầu ngân nga một bài hát gì đó, rất tự nhiên, chẳng có một nguyên cớ gì cả.
Nhưng khi đạt tới độ cao nhất định, thì toàn bộ khí ga chứa trong người tôi bắt đầu thoát ra qua tất cả những cái lỗ trên cơ thể tôi. Tai họa... Không lấy gì làm thích thú lắm khi đã bay lên được cao như thế thì bỗng bị rơi xuống đất và điều đó cũng là điều thường xảy ra với những người đang say sưa với thành tích bỗng bị rơi xuống từ đỉnh cao quyền lực... Vì nợ nần và ăn uống tồi tệ, người tôi bị thủng nhiều chỗ đến nỗi tôi vừa che giấu được nỗi xấu hổ ở một chỗ này thì lại xuất hiện lỗ thủng ở chỗ khác...
Thế là tôi hét tướng lên:
-Cứu tôi với!...
-Hãy cắn chặt răng lại, sắp đến trăng rồi. -tôi nghe thấy một giọng nói.
-Cắn răng thì không khó, nhưng các lỗ thủng ngày càng nhiều, không thể nào bị hết được. Hãy cho người nào đến giúp tôi, không tôi rơi mất...
-Nhà nước mặt trăng đây... Chúng tôi sẽ gửi cho ông hai bao khói tàu thủy.
Nhờ sự giúp đỡ này tôi bay lên được ngay và đáp xuống mặt trăng.Những người hoàn toàn giống như chúng ta ùa ra vây xung quanh tôi.
- Nhiệt liệt hoan nghênh,
- Cảm ơn....
Người ta đặt tôi ngồi vào một cái vật gì đó. Chưa kịp chớp mắt chúng tôi đã đến một thành phố lớn. Người ta dẫn tôi vào một ngôi nhà lớn trên có treo tấm biển "Đại học tổng hợp Mặt trăng"
...................................................................................................................

Ở đây chật cứng người ...Họ ngồi rất im lặng. Người ta kéo tôi lên bục diễn đàn. Vị giáo sư nói với đám thính giả đang háo hức chờ đợi.
-Các bạn đang nhìn thấy trước mặt là người đại diện của thế giới động vật trên Trái đất mà tôi đã nói đến trong bài giảng trước. Những người đại diện của giới động vật trên Trái đất cho rằng Mặt trăng là một mảng tách ra từ Trái đất của họ. Nhưng sự thực hoàn toàn ngược lại. Cách đây 50 nghìn năm ánh sáng trên Mặt trăng số người điên và người mất trí tự nhiên tăng vọt. Chúng ta đã cho xây các nhà thương điên và lập tức những nhà thương này chật ních ngay. Và những người mất trí cứ ngày càng nhiều hơn. Điều tồi tệ hơn nữa là chúng làm hư hỏng con cái chúng ta, làm lầm lạc cả những người tỉnh táo. Và người ta tìm mọi cách để cách ly bọn chúng nhưng không có kết quả. Người ta tống chúng lên núi cao, đẩy chúng lên sa mạc, nhốt vào các trại giam cũng không ăn thua. Cuối cùng để thoát khỏi bọn người điên mất trí này người ta quyết định quẳng chúng đi một nơi xa hẳn Mặt trăng. Chúng ta bẻ một mẫu xấu xí nhất của Mặt trăng và vứt nó vào khoảng không. Thế là trái đất hình thành từ đấy.
Chúng ta ném xuống đấy những kẻ điên và mất trí. Như vậy Trái đất là một ngôi nhà điên. Từ đó chúng ta cắt đứt liên lạc với bọn người điên, cắt đứt mọi quan hệ với chúng. Để tồn tại, đám người điên cần có một bầu khí quyển hôi hám và độc hại. Vì thế khoảng không xung quanh Trái đất được chúng bao bọc bởi không khí. Và những cư dân ngày nay của Trái đất không thể sống mà không có không khí.
Những thính giả từ đầu đến giờ vẫn ngồi im lặng theo hàng lối bất ngờ đứng bật dậy, nắm chặt tay và gào lên: " Đồ vi trùng! Vi trùng!"
Vị giáo sư nói tiếp:
-Vậy là, khi vứt bỏ những người điên đi chúng ta đã ném nhầm xuống Trái đất một số người thông minh. Dần dần ở đó xuất hiện con cháu của những người thông minh này. Nhưng những con người điên rồ của Trái đất lại coi những người thông minh ấy là người điên và giam họ vào các nhà thương điên.
Đám thính giả càng sôi máu, có những tiếng hét to: "Treo cổ hắn lên, Chặt đầu hắn đi!"...
Mọi vật xung quanh trở nên hỗn loạn. Họ xông vào tôi. Có đôi tay của ai đó bóp chặt lấy cổ tôi...
Tôi đã bắt đầu phát ra những tiếng rên trước khi chết
Nhưng bỗng có người lay lay tôi: 
-Bố, bố ngáy to quá!...
Tôi mở choàng mắt. Hóa ra tôi đang thiếp đi bên lò sưởi.
-Ôi! Trái đất vẫn còn tồn tại...  Thái Hà dịch.

Mảnh sắt gỉ trong kho báu Aziz Nesin

Vào một thời kì xa xôi ở một xứ sở kia không có cái gì cả. Xứ sở này có một quốc vương. Quốc vương có một kho báu. Trong kho báu, theo lưu truyền, có giữ một báu vật vô giá duy nhất của đất nước. Dân chúng ai cũng tự hào về cái vật báu do tổ tiên để lại. "Dù chúng ta không có cái gì, nhưng tổ tiên đã để lại cho chúng ta gìn giữ một báu vât." -Họ huênh hoang như vậy mà quên đi những khó khăn túng thiếu của mình.
Vì cái báu vật này không thuộc về một người nào, cũng chẳng phải của hai người, mà là tài sản của toàn thể dân chúng, nên mỗi người đều cho rằng trong cái báu vật ấy có phần của mình, vì thế bằng niềm tin và sự thật họ ra sức bảo vệ gìn giữ nó.
Mặc dù báu vật ấy là tài sản của toàn dân, song nơi gìn giữ thích hợp nhất đối với nó là kho tàng của quốc vương. Những người lính gác có vũ trang ngày đêm túc trực bảo vệ kho báu. Thậm chí một con chim cũng không thể bay qua nơi cất giữ báu vật.
Quốc vương và các vị đại thần - tất cả những người có thế lực trong hoàng cung - năm nào cũng vào một ngày nhất định làm lễ tuyên thệ trung thành với báu vật mà tổ tiên để lại.
Một hôm quốc vương bỗng nảy ra ý muốn được xem cái báu vật mà nhân dân phải gìn giữ như con ngươi của mình ấy là vật gì. Ngài khao khát muốn nhìn thấy cái vật cất trong hộp linh thiêng ấy. Cuối cùng không nhịn được ngài đi đến kho báu. Những người lính canh cho ngài vào. Quốc vương, thừa tướng và các vị đại thần bao giờ cũng được tự do vào kho để kểm tra xem cái vật báu mà họ có trách nhiệm bảo vệ có còn trong hộp hay không. Để nhìn thấy cái hộp linh thiêng ấy phải bước vào phòng thứ nhất từ đó sang phòng thứ hai, rồi lại tiếp một phòng nữz, cứ như vậy phải đi qua bốn mươi phòng, và đến phòng thứ bốn mốt mới là phòng cất giữ những chiếc hộp quý, hộp nọ lồng hộp kia. Còn vật báu thì nằm trong chiếc hộp thứ bốn mốt.
Quốc vương đã mở hết bốn mươi cánh cửa. Ngài bước vào phòng thứ bốn mốt. Ngài mở hết bốn mươi chiếc hộp xong thì hồi hộp cầm lấy chiếc hộp thứ bốn mốt. "Không biết cái vật báu mà chúng ta gìn giữ bao nhiêu năm nay là vật gì đây?" -Ngài hồi hộp tự hỏi mình.
Khi ngài mở nắp ra thì trước mắt ngài hiện ra một báu vật đẹp chưa từng thấy trên đời này. Nó đỏ rực như lửa, vàng không phải vàng, bạch kim không phải bạch kim, lại càng không phải bạc. Quốc vương không kìm nổi lòng thèm muốn. "Ta sẽ lấy cái báu vật này và thay vào nó là một mãu bạch kim có khảm ngọc trai và đá quý. Chưa ai được nhìn thấy vật báu nên mọi người sẽ không thể pháp hiện ra sự đánh tráo này."
Quyết định thế nào ngài làm đúng như vậy. Sau đó, ngà lần lượt nét tất cả các cái hộp vào nhau, đóng lần lượt tất cả các cửa phòng lại, rồi bước ra ngoài.
Tuy đã ra đến ngoài nhưng có ai bảo đảm cái vật báu giả kia bị phát hiện? Để không ai biết ngài đã ăn cắp vật báu, từ hôm đó quốc vương ra lệnh hàng năm phải làm lễ cầu nguyện hai lần, chứ không phải một lần như trước. Từ đó mỗi năm hai lần quốc vương và toàn thể thần dân lại tập trung trên quảng trường thề trung thành và bảo vệ vật báu thiêng liêng do tổ tiên để lại.
Người ta nói thừa tường là người đa mưu túc trí. Ông cứ nghĩ và phỏng đoán mãi về chuyện tại sao quốc vương bỗng ra lệnh phải cầu nguyện mootjnawm hai lần, trong khi trước đây chỉ một lần là đủ.
"Mà cái báu vật mà chúng ta phải gìn giữ ấy thực ra là vật gì nhỉ?" - Thừa tướng nghĩ. Cuối cùng, không chịu được , ngài đến kho tàng. Sau khi đi qua bốn mươi phòng và mở bốn mươi chiếc hộp ngài nhìn thấy một báu vật. Miếng bạch kim lớn có khảm ngọc mà quốc vương để vào đấy thay cho báu vật làm cho thừa tướng sửng sốt. "Ta phải lấy cái báu vật này, - ngài nghĩ, - và thay thế bằng một miếng vàng có chạm đá quý. Vì không ai biết báu vật ấy là vật gì. Giả sử có ngày nào người ta mở cái hộp ra thì cũng không ai nghĩ rằng báu vật đã bị đánh tráo!"
Nói là làm. Nhưng sợ việc đánh tráo bị phát hiện nên ngài xin với quốc vương cho tổ chức lễ cầu nguyện thường xuyên hơn. Vậy là người ta bắt đầu cầu nguyện bốn lần trong năm, vào các mùa xuân, hạ, thu, đông.
Một trong các vị đại thần nghe nói cũng là người khôn ngoan. Ông này cũng suy nghĩ tại sao bỗng dưng lại làm lễ cầu nguyện bốn lần trong năm trong khi cách đây không lâu mới chỉ có hai lần. Sử dụng quyền hạn của mình và cũng không nói với ai lời nào, một hôm ông cũng đến kho báu. Sau khi qua bốn mươi gian phòng và mở ra bốn mươi mốt chiếc hộp ngài nhìn thấy thước mắt một vật bằng vàng lóng lánh có chạm đá quý. "Hay là ta thay vào đay mẫu bạc, vì cũng chẳng ai biết được?" Nghĩ sao ngài làm như vậy.
Sợ việc ăn trộm có thể bị phát hiện ngài lại quyết định bắt dân chúng phải cầu nguyện mỗi tháng một lần. Làm như vậy ngài muốn chứng minh lòng trung thành của mình với báu vật tổ tiên.
Từ đó dân chúng bắt đầu tập trung ở quảng trường mỗi tháng một lần và mọi người đều thề nguyền sẽ bảo vệ vật báu đến giọt máu cuối cùng.
Vị đại thần trông coi hoàng cung cũng là người biết suy nghĩ. Khi thấy buổi lễ tăng lên mỗi tháng một lần, ngài nghĩ: "Trong chuyện này có cái gì hơi lạ. Ta phải đi xem cái vật đó là vật gì." Ngài đi qua bốn mươi mốt gian phòng và mở ra bốn mươi mốt cái chiếc hộp và nhìn thấy vật quý. Vừa nhìn thấy ngài đã thích ngay. Và ngài nghĩ bụng: "Hay là ta đem đánh tráo nó bằng một miếng đồng? Ai biết được?" Nghĩ thế nào ngài làm thế. Nhưng sau đó ngài cũng sợ bị phát hiện. Nên ngài quyết định tăng số buổi cầu nguyện lên mỗi tuần một lần.
Viên đội trưởng đội canh gác cho kho báu cũng nghĩ: "Sao lại như thế nhỉ? Tuần nào cũng thề nguyện trung thành. Ta phải xem trong đó cất cái gì?"
Như mọi người khác anh ta cũng đi qua bốn mươi mốt gian phòng và mở bốn mươi mốt cái hộp. Khi nhìn thấy miếng đồng sáng loáng mặt anh rạng rỡ vì sung sướng. "Ta sẽ đổi miếng sắt vào đây! Dù sao cũng không ai biết được!"
Anh ta thực hiện điều vừa nghĩ, nhưng việc làm đó khiến anh lo lắng. Để cố tỏ lòng trung thành không tiếc sức lực và sinh mạng để gìn giữ báu vật, anh bắt đầu thề nguyện mỗi ngày một lần. 
Một thời gian sau trong dân chúng có người tuyên bố:
-Đã nhiều năm qua chúng ta thề nguyện không tiếc sức, tiếc sinh mạng để gìn giữ báu vật do tổ tiên để lại. Và quả thực chúng ta đã gìn giữ rất cẩn thận vật báu đó trong kho. Nhưng liệu có ai biết báu vật đó là vật gì không? Tại sao chúng ta không thử mở xem? Nào chúng ta hãy cùng vào kho báu mở cái hộp ra xem vật báu đó là vật gì mà chúng ta phải gìn giữ cẩn thận như thế?
Những lời nói của ông ta như tiếng sét giữa trời. Tất cả những người đã đánh tráo báu vật, đứng đầu là quốc vương, đều nhảy xổ vào đám người đã dám có thái độ xấc xược đó. Mỗi người đánh tráo báu vật đều nghĩ chỉ mình làm việc đánh tráo. Không ai biết gì về hành động của những người khác, mọi người đều run lên vị sợ bị vạch trần.
Họ càng hung hăng hơn lao vào con người dám xáo động sự yên tĩnh và buộc anh ta là đã có ý muốn xúc phạm vật linh thiêng.
- Chà đồ vô lại! Anh có công lao gì mà dám đòi xem vật thiêng của tổ tiên để lại?
Sau khi thuyết phục dân chúng rằng hắn là một tên tội phạm, mọi người đã xông vào con người này. Chỉ chút nữa là hắn bị giết. Nhưng lúc ấy quốc vương nói:
- Nếu giết hắn thì phải giết cho đúng luật. -Ngài nói.
Vậy là người ta thảo ra một sắc lệnh. Sau đó đã hành hình kẻ có tội.
Nhưng không dễ gì bắt mọi người quên đi những lời anh ta nói. Những lời đó cứ truyền đi từ miệng người này sang miệng người khác và tan đi như hòn tuyết.
Rồi một hôm có một người nữa cũng nảy ra ý định muốn xem báu vật mà người ta canh gác cẩn mật ấy là vật gì. Nhưng biết rằng việc làm đó sẽ nguy hiểm đến tính mệnh nên anh ta không nói cho ai biết ý định của mình và một mình lẻn vào kho báu. Nhưng quốc vương, thừa tướng và các vị đại thần cùng những người đánh tráo vật báu luôn luôn lo sợ sẽ có kẻ phát hiện ra sự lừa đảo của mình nên ganh đua nhau canh gác vật báu, hay chính xác hơn là cái vật đã bị mình đánh tráo. Vì thế khi con người kia lẻn vào trong kho báu thì đã rơi ngay vào tay của họ. Người ta tóm được người này đúng lúc anh ta đã lấy được báu vật và đang định giơ ra cho dân chúng xem. Nhưng than ôi, trong tay anh ta chỉ là miếng sát gỉ đã được ai đó thay vào chỗ vật báu.
-Nhưng vật báu đó không phải là vật này! - Nhìn thấy mảnh sắt gỉ viên coi kho kêu lên.
- Không phải vật này! - Thừa tướng thốt lên
- Không phải vật này! - Viên đại thần kêu.
- Không phải vật này! - Tất cả mọi người đứng đầu là quốc vương đều kêu to.
Khi đó người đang cầm miếng sắt gỉ mới nói:
- Tại sao các vị biết đó không phải là vật báu? Nghĩa là các vị đã nhìn thấy vật báu thật rồi à?
Không ai trong số những người vừa kêu trả lời được câu nào. Mỗi người đều hiểu rằng cái vật mà họ đặt vào chỗ vật báu đã bị tên trộm sau đó đánh tráo. Sau khi nhanh chóng thủ tiêu con người bị bắt giữ, họ đem miếng sắt gỉ đặt lại vào trong hộp thiêng. Sau đó lần lượt nhét tất cả các hộp vào nhau rồi bỏ đi, khóa chặt cửa bốn mươi mốt căn phòng. Nhưng vì trong lòng họ vẫn thấy không yên tâm nên họ ban sắc lệnh mới về bảo vệ vật báu. Theo lệnh này toàn dân có nghĩa vụ phải thề nguyện trung thành báu vật một ngày ba lần sáng, trưa, chiều.
Dân chúng nghiêm chỉnh chấp hành lệnh. Và không ai trong số những người ngoan ngoãn thề nguyện ấy (không bao giờ )biết được cái vật báu mà họ hết sức trung thành bảo vệ ấy chỉ là miếng sắt gỉ.

Hỡi các con, hãy khôn lớn thành người! Aziz Nesin

Hỡi các con, hãy khôn lớn thành người! (Người dịch : Nguyễn Chí Được: Azit Nêxin Giải sầu chủ nhật NXB văn hóa thông tin)
Một hôm kiến mẹ và kiến bố gọi các con lại để giảng giải vềđạo lý của loài kiến. Kiến bố kết thúc buổi giảng bằng những câu:
Hỡi các con! Các con hãy ra sức phấn đấu trong cuộc sống đểtrở thành những con kiến! Muốn thế không bao giờ các con được vi phạm cácnguyên tắc của loài kiến chúng ta.
Các chú kiến con nhao nhao hỏi:
Thưa bố, làm thế nào để trở thành con kiến chân chính? Vàlàm thế nào để xứng đáng với danh hiệu cao quý này?
Các con sẽ theo gương bố mẹ. Bố mẹ sống và làm việc thế nàothì các con cứ làm như thế. Kiến bố trả lời.
Thế là những chú kiến con bắt đầu làm việc như bố mẹ chúngvẫn làm hàng ngày. Ngay từ mùa hè chúng cùng bố mẹ đi tha cỏ, lá về giấu dướiđất. Mùa đông thì chúng nghỉ đông trong tổ. Và khi trưởng thành thì chúng đểtrứng, sinh con.
Hôm ấy bố mẹ kiến lại gọi các con về quây quần xung quanhmình.
Hỡi các con! Kiến bố nói với các con. Bố sắp từ giã cõi đờinày. Trước khi ra đi, bố muốn nói với các con rằng: bố rất hài lòng về tất cảcác con. Các con đã trở thành những con kiến chân chính, không ai phản bội lạicác nguyên tắc của loài kiến.
Bố mẹ sẽ luôn luôn cầu phúc cho các con!
Cầu đức Alaphù hộ độ trì cho các con!

Cá bố và mẹ gọi các con đến để giảng bài về cuộc sống củaloài cá. Cá bố kết thúc bài học bằng lời giáo huấn.
Hỡi các con! Các con hãy cố gắng trong cuộc sống để trởthành những con cá chân chính. Muốn thế các con phải giữ vững các nguyên tắccủa loài cá.
Lúc bấy giờ bọn cá con nhao nhao hỏi:
Thưa bố, chúng con phải làm thế nào để trở thành những concá chân chính và giữ vững danh hiệu đó?
Cá bố trả lời:        
-Các con sẽ theo gương bố mẹ. Những việc mà bố mẹ các conlàm bao giờ cũng đúng. Các con chỉ việc theo đó mà làm.
Thế là bọn cá con bắt đầu quan sátchăm chú mọi việc bố mẹ chúng làm. Chúng cũng bơi lội tung tăng trong biển, gặpbọn cá bé hơn nếu nuốt được là nuốt liền và khi gặp bọn cá lớn hơn cũng đànhcho cho chúng nuốt, khi trưởng thành chúng đẻ trứng sinh con.
Thời gian cứ thế trôi qua. Một ngày kia cá bố và cá mẹ tậptrung các con lại.
Hỡi các con! – Cá bố nói – Giờ các con đã khôn lớn. Bố mẹ cóthể thanh thản ra đi. Tất cả các con đã trở thành những con cá chân chính.Không ai phản bội lại các nguyên tắc của loài cá. Công sức của bố mẹ bỏ rakhông uổng phí. Bố mẹ luôn cầu chúc cho các con hạnh phúc. Xin đức Ala phù hộ độ trì chocác con!

Chó bố và chó mẹ gọi các con lại để giảng giải về lẽ sốngcủa loài chó. Chó bố kết thúc buổi giáo huấn bằng những lời:
- Hỡi các con! Điều chính yếu nhất của các con là phải phấnđấu để trở thành những con chó chân chính. Muốn thế các con phải trung thànhvới các nguyên tắc của loài chó.
Lúc bấy giờ đàn chó con liền hỏi:
Thưa bố, phải làm gì để trở thành những con chó chân chínhvà xứng đáng với danh hiệu cao quý của loài chó.
Điều này rất dễ, chó bố trả lời. – Các con sẽ theo gương bốmẹ. Hành động của bố mẹ là mẫu mực để các con nhìn vào mà học tập.
Các chú chó con bắt đầu quan sát mọi hành động của của bố mẹvà anh chị lớn hơn. Họ làm thế nào thì lũ chó con làm theo thế ấy. Bố mẹ sủathì các con cũng sủa theo. Bố mẹ canh gác, trông nom nhà cửa, các con đều làmtheo. Bố mẹ tỏ ra trung thành với chủ, các con khi có chủ riêng cũng cư xử nhưvậy. Rồi đàn chó lớn lên, tìm đôi kết bạn, sinh sôi nảy nở, tiếp tục duy trìnòi giống.
Một ngày kia bố mẹ chó lại tập trung các con quanh mình vànói:
Hỡi các con! – Chó bố nói – Giờ các con đã khôn lớn trưởngthành. Còn bố mẹ thì đã đến cõi. Trước khi ra đi, bố muốn nói với các con rằng,bố mẹ rất hài lòng về các con. Các con đã không rời xa nguyên tắc của nhà chó.Công sức bố mẹ bỏ ra không uổng phí. Bố mẹ luôn cầu chúc cho các con hạnh phúc!Cầu mong đức Alaphù hộ độ trì cho con con!

Không chỉ có thế, các loài bò, trâu, cá voi, lạc đà, voi,rắn rết… tất cả bố mẹ chúng đều nói với con cái rằng, phận làm con phải cố gắngphấn đấu sống như bố mẹ mình đã sống, và làm theo những gì bố mẹ mình đã làm.
Con cái tất cả loài vật đã đi theo con đường mà mà bố mẹchúng đã đi, nên cuối cùng đã trở thành những con vật tốt. Chính vì thế mà bố mẹchúng khi ra đi vĩnh viễn đều mãn nguyện vô cùng. Vì họ biết rằng đã để lại cáiphúc cái đức cho các con.

Bố con người và mẹ con người tập hợp các con lại để giảnggiải về đạo lý làm người. Kết thúc bài giảng, ông bố con người nói:
Hỡi các con! Các con cố mà phấn đấu thành con người. Khôngbao giờ được từ bỏ các nguyên tắc của loài người.
Các con liền hỏi lại:
Thưa bố, vậy chúng con phải làm gì để trở thành con người vàxứng đáng với danh hiệu vẻ vang đó?
Điều đó rất dễ, - bố con người trả lời, - các con hãy theogương bố mẹ
Bố mẹ làm gì các con hãy làm như thế.
Các con bắt đầu quan sát bố mẹ, làm đúng những gì mà bố mẹchúng đã làm. Chúng lớn lên giống hệt bố mẹ chúng.
Biết mình sắp từ giã cõi đời, bố mẹ con người gọi các conlại. Ông bố con người buồn rầu thốt lên:
Thật đáng tiếc! Không một ai trong số các con xứng đáng vớidanh hiệu cao quý Con người. Các con đã rời xa các nguyên tắc của loài người.Bố mẹ thì sắp qua đời, giờ mới nhận ra công sức của mình bỏ ra thật uổng côngvô ích. Các con đền đáp tình yêu và sự chăm sóc của bố mẹ bằng nỗi đau khổ êchề. Các con thật đáng nguyền rủa!
Vì sao bố mẹ lại mắng nhiếc chúng con như vậy? – Những đứacon tỏ ra ngạc nhiên. – Chúng con có làm gì khác bố mẹ đâu. Chúng con luôn theogương bố mẹ, và chỉ làm những gì bố mẹ đã làm. 

Chú lừa nhận huy chương (Aziz Nesin)

Chú lừa nhận huy chương (Azit Nêxin Giải sầu chủ nhật. Người dịch : Nguyễn Chí Được Nxb văn hóa thông tin)
Ngày xửa ngày xưa có một đất nước nọ có một ông vua trị vì.Cả nước phát triển rực rỡ như khu vườn mùa xuân được ánh nắng dân chủ ấm áp chiếu rọi giúp cho hàng ngàn hàng vạn loại cây tự do sinh sôi phát triển trên mặt đất. Người dân không biết đói khổ làm gì.
Nhưng bỗng một tai họa khủng khiếp xảy ra ở đất nước này. Cảnước bị nạn đói hoành hành dữ dội đến mức không bút nào tả xiết, không lời nàonói đủ. Kể cả những nhà trước kia giàu có nhất cũng không có gì mà ăn.
Trước cảnh đói khổ của dân chúng, nhà vua động lòng suynghĩ. Ông suy nghĩ, suy nghĩ mãi cuối cùng tìm ra được cách giải quyết. Nhà vuacho mõ đi ra khắp các hang cùng ngõ hẻm, để tất cả người dân biết chiếu chỉ mớicủa nhà vua: bất kì ai dù ít dù nhiều, có công đóng góp cho quốc gia, làm đượcviệc gì đó có ích cho tổ quốc đều được tặng thưởng huy chương.
Dân chúng nghe tin này liền quên hết đói rét, khổ đau buồnthảm, nợ nần, chi phí, chỉ nóng lòng mong chóng nhận được huy chương. Tùy vàocông lao của từng người mà nhà vua phát cho các loại huy chương khác nhau.
Huy chương hạng nhất là huy chương vàng. Loại hai là huychương mạ vàng. Loại ba là huy chương bạc. Loại bốn là huy chương sắt. Loại nămlà huy chương thiếc. Loại sáu là huy chương kẽm. Loại bảy là huy chương sắttây… Tóm lại ai đã đến cung điện nhà vua đều được phát huy chương cả. Chẳng baolâu trong nước không còn lấy một mẩu kim loại nào. Trong khi đó trên ngực áo aicũng lủng lẳng những huy chương là huy chương, trông giống như những vòngchuông, vòng cườm trên cổ loài la.
Một con bò cái thấy mọi người ai cũng đeo huy chương và nghenói rằng hễ ai đến xin, nhà vua đều ban phát cho huy chương cả, nó liền tự bảo:“ Thế thì ta kém gì mà không đến đầu tiên để nhận huy chương”.
Thế là chị bò người chỉ còn da bọc xương, hai hàng vú nhănnhúm thõng thẹo, bụng thót lên tận sống lưng, bước thấp bước cao, dò dẫm lêntriều đình.
Đến nơi bò ta nói với người gác cổng:
-Nhờ ông tâu với nhà vua có bò tôi xin được yết kiến.
Lính canh thấy sự lạ, liền tìm cách đuổi chị bò đi. Nhưngchị ta không phải tay vừa, be ầm lên:
-Nếu không được gặp nhà vua, tôi sẽ không rời nửa bước khỏicánh cổng này.
Lính canh đành phải vào tâu vua:
-Tâu bệ han, có một ả bò cái xin được yết kiến.
-Cho ả ta vào, - nhà vua nói.
-Nào, nhà ngươi hãy be lên ta nghe xem có chuyện gì? – Nhàvua bảo.
-Tâu bệ hạ - chị bò cái nói, - thần được biết là bệ hạ banphát huy chương, thần cũng muốn được một chiếc.
-Nhà ngươi có quyền chi, có đóng góp gì cho đất nước mà đòinhận huy chương? – Nhà vua giận dữ quát to.
-Thưa đức đại chí tôn! - Ả bò cái mở đầu. – Loài bò chúngtôi không được ban phát huy chương thì vua ban phát cho ai? Thịt của chúng tôiai ăn, sữa chúng tôi ai uống, da chúng tôi ai đi trên chân. Thậm chí cả nhữngthứ chúng tôi thải ra cũng được dùng vào việc. Phải chăng như thế chưa đủ đểnhà vua ban cho chúng tôi tấm huy chương, dù đó là huy chương sắt tây?
Nghe chị bò cái phân trần, nhà vua thấy có lý.Ông bèn ra lệnh ban cho chị tấm huy chương loại ba. Chị bò mặt tươi như hoa, với tấm huychương đeo lủng lẳng trước cổ tấp tễnh trở về nhà. Trên đường chị gặp chú la.
-Xin chào chị bò!
-Xin chào chú la!
-Chị đi đâu về mà tươi tỉnh vui vẻ thế?
Chị bò cái liền kể lại mọi chuyện. Khi chị kể đến đoạn mìnhđược tặng huy chương thì chú la chưa kịp nghe hết chuyện đã vội vã ba chân bốncẳng chạy thẳng đến cung vua.
-Tôi muốn được yết kiến nhà vua! – Chú la trịnh trọng tuyênbố.
-Không được, -lính canh trả lời chú la.
Tuy nhiên chú la vốn được thừa hưởng tính ngang bướng của cụkỵ tổ tiên mình nên đâu có dễ thoái lui. Chú cứ đứng đấy hết van vỉ lại lấychân cấu vào cánh cổng cung điện mà xin vào. Thấy thế lính canh đành phải vàotâu vua.
-Thôi được, hãy cho chú la – kẻ nô lệ trung thành của ta vàoyết kiến! – Nhà vua ra lệnh.
Chú quỳ sụp xuống, vái lạy nhà vua, kính cẩn hôn tấm longbào trên người vua, rồi mới từ tốn xin được ban huy chương.
-Vì lý do gì mà nhà ngươi xin nhận huy chương.
-Ôi muôn tâu bệ hạ, phải chăng loài la chúng conít đóng gópcho tổ quốc? Trong thời gian chiến tranh không phải chúng con đã từng cõng trênlưng súng ống đạn dược ra mặt trận cho quân đội thì ai làm việc này? Trong thờibình không phải chúng con thì ai mang trên lưng mình các bà hoàng hậu, cáchoàng tử, các công chúa của nhà vua đi thăm thú mọi nơi? Không có loài la chúngcon có hỏng hết mọi việc!
Nhà vua cho rằng nguyện vọng của chú la là chính đáng và banlệnh:
-Hãy cấp cho chú la tấm huy chương hạng nhất!
Chú la sướng phá điên lên được, đang chạy vội về nhà để khoevới mọi người thì gặp bác lừa trên đường.
-Chào cháu la! – Bác lừa chào trước.
-Cháu chào bác lừa!- Chú la đáp.
-Cháu đi đâu về đấy?
Nghe xong câu chuyện chú la kể lại, bác lừa liền nói:
-Thế thì ta cũng phải đi gặp nhà vua để xin cấp huy chương!
Nói đoạn, bác lừa liền đến cung điện nhà vua. Lúc đầu línhcanh một mực không cho bác vào, nhưng sau mới nhớ ra rằng loài lừa vốn không dễbảo, chịu đựng rất giỏi, nên đành phải vào tâu với nhà vua.
-Có một chú lừa tự xưng là công bộc trung thành của nhà vuaxin được yết kiến.
-Nhà ngươi muốn gì? Hỡi chú lừa công bộc của ta kia? – Nhà vuahỏi bác lừa.
Bác lừa trình bày nguyện vọng của mình với nhà vua. Chưanghe hết, nhà vua đã hết sức giận dữ quát to:
-Loài bò cung cấp thịt, sữa, da và phân cho cả nước. Loài latrong thời chiến cũng như trong thời bình, lúc nào cũng mang vác hàng hóa, chởngười trên lưng nặng nhọc vất vả, vì thế họ xứng đáng được tặng thưởng, tônvinh. Còn giống lừa nhà anh, thử hỏi đã làm được việc gì mà dám đòi cấp huychương. Nhà anh liệu có gì đáng ca ngợi?
Đợi nhà vua nói xong, bác lừa cười một cách độc ác rồi nói:
-Tâu bệ hạ, giống lừa là những công bộc trung thành nhất củabệ hạ, có phần đóng góp lớn lao nhất trong mọi việc của quốc gia. Nếu như khôngcó hàng ngàn, hàng vạn những công bộc xuất thân từ giống lừa ưa nặng như conđây thì ngai vàng của bệ hạ liệu có còn giữ nổi không? Và bệ hạ có còn trị vìđược nữa không? Ơn trời, bệ hạ còn có giống lừa chúng con nên mới giữ yên đượcsơn hà xã tắc đó.
Nhà vua hiểu rằng con lừa này cũng như toàn bộ số lừa cònlại không xứng đáng được nhận huy chương sắt tây.
- Ôi chú lừa công bộc trung thành của ta, - nhà vua nói, -ta không có loại huy chương phù hợp tặng thưởng cho chú vì sự đóng góp cao cảcủa chú. Thay vào đó, từ nay đến khi chú qua đời, mỗi ngày chú được hưởng mộtbao cỏ từ chuồng ngựa của quốc gia. Hàng ngày chú hãy ăn số cỏ đó và đừng quênluôn luôn ca ngợi sự trị vì vủa ta.